Chi phí không tính lãi là gì? Các thành phần của chi phí không chịu lãi? Về Hệ số Hiệu quả ngân hàng? Chi phi lãi suất trong các loại ngân hàng khác nhau?
Các nhà phân tích thường quy kết lợi nhuận kỷ lục của ngân hàng trong những năm gần đây là do sự tăng trưởng đáng kể của thu nhập không lãi, doanh thu mà các ngân hàng kiếm được từ các lĩnh vực bên ngoài hoạt động cho vay của họ. Ngoài sự tăng trưởng của nó, thu nhập phi lãi trong thập kỷ qua được đặc trưng bởi sự thay đổi nguồn từ phí tài khoản tiền gửi, chẳng hạn, sang phí dịch vụ thế chấp hoặc bán quỹ tương hỗ.
Những xu hướng này được giải thích một phần bởi các công nghệ mới và các cơ hội có sẵn cho các ngân hàng, nhưng “tính năng độc đáo” của thu nhập không lãi cũng giải thích chúng. Quan trọng nhất, các ngân hàng tăng thu nhập ngoài lãi có thể giảm rủi ro; thu nhập phi lãi tăng có thể dẫn đến đa dạng hóa hơn. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ cung cấp các thông tin liên quan đến chi phí không chịu lãi.
Mục lục bài viết
1. Chi phí không tính lãi là gì?
Bất kỳ khoản thu nhập nào mà ngân hàng kiếm được từ các hoạt động không phải là hoạt động kinh doanh trung gian cốt lõi của họ (nhận tiền gửi và cho vay) hoặc từ các khoản đầu tư của họ được phân loại là thu nhập phi lãi. Loại thu nhập này thường được gọi là “thu nhập phí” vì phí chiếm phần lớn thu nhập phi lãi. Các ngân hàng báo cáo thu nhập này cho các cơ quan quản lý theo năm hạng mục được xác định rộng rãi được tóm tắt trong bảng kèm theo.
Chi phí không chịu lãi hay chi phí ngoài lãi là chi phí hoạt động do ngân hàng phát sinh và nó tách biệt với chi phí lãi tiền gửi của khách hàng. Nó bao gồm chi phí hoạt động và chi phí chung của ngân hàng, chẳng hạn như tiền lương và tiền thưởng của nhân viên, thuế thất nghiệp, vận hành và bảo trì cơ sở vật chất, cho thuê thiết bị, tiếp thị, bảo hiểm, nội thất và khấu hao các khoản vô hình.
Nói chung, chi phí ngoài lãi là rất cần thiết cho hoạt động hàng ngày của ngân hàng, và do đó, ngân hàng cần giữ chi phí hoạt động của mình ở mức tối ưu để tối đa hóa lợi nhuận hàng năm.
Nếu chi phí hoạt động không được quản lý hợp lý, chúng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Chi phí không lãi suất của ngân hàng thường được bù đắp bằng phí dịch vụ từ nguồn vốn vay, phí hàng năm, phí cấp tín dụng và phí trả chậm cho các khoản vay.
2. Các thành phần của chi phí không chịu lãi:
Chi phí không chịu lãi thể hiện chi phí hoạt động mà ngân hàng phải chịu. Phần lớn chi phí ngoài lãi bao gồm chi phí nhân sự, chi phí công nghệ thông tin, phí pháp lý, dịch vụ tư vấn, bưu phí và văn phòng phẩm, các thành phần chi phí vật liệu, chi phí liên quan đến việc thuê hoặc cho thuê tòa nhà và các tài sản cố định khác. Một ngân hàng có chi phí hoạt động thấp hơn sẽ được hưởng lợi thế theo quy mô trong ngân hàng vì nó có thể phân bổ chi phí hoạt động trên doanh thu lớn.
Vì chi phí ngoài lãi là một thành phần chính trong tổng chi phí của ngân hàng, chúng được coi là chi phí chung của ngân hàng và được sử dụng để tính toán tỷ lệ chi phí chung. Tỷ lệ chi phí đầu tư được tính bằng cách lấy chi phí ngoài lãi chia cho tài sản bình quân. Tỷ lệ chi phí đầu tư thấp được ưu tiên hơn vì nó cho thấy công ty phải chịu chi phí hoạt động thấp hơn.
Tuy nhiên, khi một ngân hàng báo cáo tỷ lệ chi phí đầu tư cao trong một thời gian dài, điều đó có nghĩa là ngân hàng đó phải đối mặt với chi phí hoạt động cao, có thể ảnh hưởng đến thu nhập được báo cáo của ngân hàng. Các ngân hàng giải quyết vấn đề này bằng cách giảm thiểu chi phí nhân sự vì chúng chiếm phần lớn chi phí ngoài lãi.
3. Về Hệ số Hiệu quả ngân hàng:
Hệ số hiệu quả hoạt động ngân hàng là một công cụ tài chính dùng để xác định hiệu quả hoạt động tài chính của ngân hàng. Đây là tỷ lệ giữa chi phí ngoài lãi trên doanh thu thuần từ hoạt động kinh doanh. Công thức cho tỷ lệ hiệu quả của ngân hàng như sau:
Hệ số hiệu quả = Chi phí không chịu lãi / (Thu nhập lãi ròng + Thu nhập ngoài lãi)
Tỷ lệ hiệu quả cho thấy chi phí hoạt động phải chịu để kiếm được mỗi đô la doanh thu và tỷ lệ này khác nhau giữa các công ty ngân hàng. Thông thường, tỷ lệ hiệu quả thay đổi từ 50% đến 80%. Tỷ lệ hiệu quả 50% là tỷ lệ tối ưu, và nó có nghĩa là cứ 1 đô la chi phí, ngân hàng thu được 2 đô la doanh thu.
Tỷ lệ hiệu quả cao hơn cho thấy ngân hàng phải đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, điều này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Khi tính toán tỷ lệ hiệu quả của một ngân hàng, các con số cần thiết để tính toán tỷ lệ này được lấy từ báo cáo thu nhập của ngân hàng.
Thu nhập hoạt động: Các ngân hàng sử dụng thu nhập từ hoạt động kinh doanh để bù đắp chi phí không chịu lãi. Thu nhập từ hoạt động kinh doanh bao gồm thu nhập lãi thuần từ các khoản cho vay và thu nhập ngoài lãi (thu nhập phi lãi)
– Thu nhập lãi thuần: Thu nhập lãi thuần là thu nhập mà ngân hàng thu được từ các khoản cho vay, và thu nhập này thu được bằng cách tìm chênh lệch giữa lãi tiền cho vay và lãi tiền gửi của khách hàng. Thông thường, khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng sẽ đầu tư số tiền đó bằng cách phát hành các loại cho vay khác nhau, chẳng hạn như cho vay cá nhân, cho vay MSME và thế chấp.
Ngân hàng cũng có thể đầu tư tiền vào cổ phiếu, trái phiếu và các khoản đầu tư khác trên các thị trường tài chính khác nhau. Tiền lãi thu được từ các khoản cho vay và đầu tư vào thị trường tài chính được ghi nhận là thu nhập lãi trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Sau đó, ngân hàng trả lãi tiền gửi của khách hàng, thường ở mức thấp hơn lãi suất được tính trên các khoản cho vay đã ứng trước cho người đi vay. Phần chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi vay là thu nhập lãi thuần.
-Thu nhập ngoài lãi: Thu nhập ngoài lãi là doanh thu thu được từ các khoản phí không phải là thu nhập từ lãi của các khoản cho vay. Ví dụ về thu nhập ngoài lãi bao gồm phí bắt đầu đối với các khoản thế chấp, phí phạt khi thanh toán chậm và phí thấu chi, phí hoán đổi thẻ do ngân hàng phát hành và phí duy trì tài khoản hàng tháng. Các khoản thu này giúp bổ sung cho thu nhập lãi từ các khoản cho vay và đầu tư trên thị trường tài chính.
4. Chi phi lãi suất trong các loại ngân hàng khác nhau:
Các ngân hàng đầu tư có xu hướng chịu chi phí ngoài lãi cao hơn các ngân hàng thương mại. Nói chung, các ngân hàng đầu tư tham gia vào các hoạt động đầu tư khắt khe hơn, chẳng hạn như quản lý tài sản, phát hành IPO, tư vấn thị trường vốn, v.v., đòi hỏi sự tham gia của nhân viên cao hơn.
Do đó, chi phí bồi thường cho nhân viên chiếm phần lớn trong tổng chi phí ngoài lãi, trong khi các hoạt động kinh doanh khác chiếm phần còn lại của chi phí ngoài lãi. Mặt khác, các ngân hàng thương mại chủ yếu tập trung vào việc nắm giữ tiền gửi của khách hàng và tạo ra các khoản cho vay đối với những người vay tiềm năng, điều này không đòi hỏi mức độ tham gia của nhân viên và mức lương thưởng tương đương so với các ngân hàng đầu tư.
Ngoài ra, các ngân hàng thương mại bị ràng buộc bởi các yêu cầu quy định về các hoạt động đầu tư mà họ có thể tham gia và cách họ sử dụng tiền của người gửi tiền.
Việc thêm thu nhập không lãi vào nguồn thu của ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro bằng cách tạo cho ngân hàng một danh mục đầu tư đa dạng hơn về các hoạt động tạo ra doanh thu. Tuy nhiên, sự đa dạng hóa này sẽ chỉ đạt được nếu những thay đổi trong thu nhập lãi không đi kèm với những thay đổi cùng chiều và cùng mức độ đối với thu nhập phi lãi. Mức độ mà hai đại lượng có liên quan với nhau có thể được xác định bằng cách đo mối tương quan giữa chúng. Phép đo như vậy cho thấy, trong 15 năm qua, biến động của các nguồn thu nhập lãi thuần và thu nhập phi lãi về cơ bản là không tương quan với nhau (nghĩa là, các thống kê tương quan rất gần bằng 0). Do đó, các ngân hàng có thêm thu nhập không lãi có thể đa dạng hóa và do đó trở nên ít rủi ro hơn.
Điều quan trọng cần lưu ý là các thước đo tổng hợp này không chỉ ra chính xác cách một ngân hàng nhất định sử dụng thu nhập phi lãi suất. Có thể trong mọi trường hợp riêng lẻ, một ngân hàng không giảm rủi ro thông qua các hoạt động thu nhập phi lãi. Ví dụ, ngân hàng có thể chọn một hoạt động thu nhập phí cụ thể trong đó thu nhập di chuyển cùng chiều và cùng mức độ với thu nhập từ các khoản cho vay.
Đã có những tuyên bố khác về tính độc nhất của thu nhập không lãi ngoài khả năng giảm thiểu rủi ro của nó. Đặc biệt, các nguồn không có lãi thường được mô tả là mang lại nguồn thu nhập ổn định hơn so với các nguồn có lãi thuần. Ổn định có thể có một số ý nghĩa trong bối cảnh này. Đầu tiên, theo nghĩa thống kê, sự ổn định liên quan đến việc một đại lượng (cho dù đó là nhiệt độ hay giá cổ phiếu) thay đổi như thế nào xung quanh giá trị trung bình của nó.
Thứ hai, ổn định có thể có nghĩa là thu nhập phi lãi suất sẽ ít có khả năng di chuyển đồng bộ với các biến số kinh tế như lãi suất hoặc tổng sản phẩm quốc nội. Chúng ta thấy rằng khi lãi suất tăng thì thu nhập ngoài lãi giảm và ngược lại. Đồng thời, mối tương quan giữa thu nhập từ tiền lãi và các mức lãi suất giống nhau hóa ra gần như bằng 0, ngụ ý rằng không có mối quan hệ tuyến tính nào giữa hai khoản này. Ngược lại, những thay đổi trong GDP có tương quan thuận với những thay đổi trong thu nhập lãi và tồn tại mối tương quan nghịch giữa thu nhập phi lãi và GDP. Vì vậy, khi nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, và cùng với thu nhập từ lãi, thu nhập phi lãi thực sự tăng lên và đóng vai trò như một bộ đệm doanh thu.
Cuối cùng, các nhà quan sát cũng có thể sử dụng sự ổn định để có nghĩa là thu nhập không lãi bù đắp cho sự sụt giảm trong điều kiện ngân hàng. Chúng tôi cố gắng đo lường điều đó bằng cách xem xét hai nguồn thu nhập này di chuyển như thế nào so với tổn thất cho vay. Ví dụ, nếu thu nhập không lãi tăng với tốc độ nhanh hơn khi các khoản lỗ đang tăng lên, thì mức thu nhập không lãi tăng cao sẽ ổn định nguồn thu của các ngân hàng và giúp ngành chống chọi tốt hơn với sự gia tăng của các khoản lỗ. Cả tốc độ tăng thu nhập lãi và thu nhập phi lãi đều có mối tương quan gần bằng 0 đối với những thay đổi trong tổng tổn thất cho vay. Điều này ngụ ý rằng cả hai loại thu nhập là tương tự nhau và không có mối liên hệ rõ ràng với tổn thất cho vay.