Liêm chính là vấn đề mà nhiều người công giáo gặp phải trong nhiều hoàn cảnh mà để kiểm soát sự liêm chính này lại là vấn đề rất khó khăn. Bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn trả lời các câu hỏi: Liêm chính là gì? Xây dựng văn hóa liêm chính công vụ?
Mục lục bài viết
1. Liêm chính là gì?
Để hiểu Liêm chính là gì? Đầu tiên bạn cần tách biệt khái niệm của từng từ, thế nào là Liêm chính và thế nào là liêm sỉ?
Liêm chính là từ thể hiện tư cách của một con người trong sạch về tư cách và tâm hồn. Đối với những người thi hành chức vụ, chữ liêm có nghĩa là lối sống trong sạch, trong sạch về tư cách, tâm hồn và thể xác. Việc làm đó, đảo ngược với chữ Liêm chính là ý chỉ những điều không trong sạch, sống tham ô, …
2. Vai trò của Liêm chính cho cuộc sống của chúng ta:
2.1. Vai trò của Liêm chính:
Đối với những bị cám dỗ với cuộc sống như tiền bạc, danh vọng và những người có suy nghĩ xấu xa, bẩn thỉu thì sự Liêm chính giúp bảo vệ chúng ta khỏi những điều xấu xa. Nhưng để tránh mắc phải những điều không hay và trở thành người Liêm chính chân chính thì cần một quá trình thay đổi tư duy, rèn luyện đạo đức.
Về tư tưởng: Liêm chính giúp ta sống giản dị, không tham lam cải cách của ai.
Về hành động: Liêm chính nhận định đúng đắn về hậu quả của những con người sống bất lương, bội bạc để họ không đi quá giới hạn, không vì danh lợi mà đánh mất giá trị của mình. bản thân.
Về Liêm chính: Người Công giáo cần phải là người sống công bằng, nói năng và hành động nghiêm túc. Đây cũng là một phẩm chất quan trọng của người lãnh đạo, để có thể quản lý người khác, tạo sự công bằng giữa mọi người, đối lập với liêm chính là chân lý.
2.2. Làm thế nào để rèn luyện tính liêm chính?
Về tư tưởng:
Để thực hành liêm chính, người Công giáo cần phân biệt đúng sai, biết sống theo lương tâm, không hổ thẹn với lương tâm.
Về hành động:
Để thực hành liêm chính người Công giáo cần rèn luyện cả trong tư tưởng và hành động
Để rèn luyện cho mình tính liêm chính, cần phải rèn luyện lương tâm cho ngay thẳng, tập xét xử công bằng trong mọi công việc. Theo Thánh kinh cũng ghi lại: “Người Công giáo thực hành chữ Chính theo lời Chúa Giêsu: Có thì nói có, không thì nói không và theo điều răn thứ 8 là làm chứng dối.
3. Xây dựng văn hóa liêm chính công vụ?
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “liêm” là trong sạch, không tham danh lợi, không tham danh lợi, không tham tiền, không tham hạnh phúc; “chính” là không ác, là ngay thẳng, đứng đắn. Người khẳng định: “Trời có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Trái đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Con người có tứ đức: Cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một mùa thì không thành trời. Thiếu một phương thì không thành đất. Thiếu một đức thì không thành người”. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, kiên trì xây dựng “văn hóa liêm khiết” theo tư tưởng Hồ Chí Minh không vì tiền bạc, vật chất là một trong những nhiệm vụ sống còn.
Để có thể loại bỏ hoàn toàn hành vi tham nhũng, bên cạnh giải pháp huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia phòng, chống tham nhũng; hoàn thiện năng lực ngăn chặn, giải quyết tạm thời các bất cập, bịt các “lỗ hổng”, để “không muốn, không nói và không thể tham”…, xây dựng văn hóa Liêm chính, tôn trọng đạo đức giáo dục, lương tâm và danh dự là giải pháp căn cơ, lâu dài. Nói cách khác, lấy sức mạnh của văn hóa để chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực.
Người coi trọng sự chính trực
Ngay từ thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, trong tác phẩm Đường khách vào đời (1927), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên những yêu cầu về phẩm chất mà người cách mạng phải có, như: “Làm công bộc; Không tham danh lợi, không kiêu căng; Nói những gì bạn phải làm; Giữ chủ nghĩa cho đất nước; hy sinh; Bớt ham muốn vật chất…”. Sau này, trong thời kỳ lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, mà theo Người: “Việc thành công hay thất bại đều tạo nên cán bộ tốt hay kém”; “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “Rèn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”.
Người coi bốn đức “Cần, kiệm, liêm, chính” là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua yêu nước khi Người khẳng định: “Không có một đức thì không thể thành người”. Trong Ngũ thường của Nho giáo, các bậc hiền triết thường chỉ bàn đến “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” mà không bàn đến “Liêm”. Cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về “Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”. Người đã định nghĩa nó trong Bản sửa đổi phương thức làm việc đã viết vào năm 1947: “Chính trực không phải là tham lam địa vị. Không tham cầu hạnh phúc. Đừng tự tâng bốc con người. Vì vậy, quang minh là chân chánh và không bao giờ hư hoại. Chỉ có một điều duy nhất đó là ham học, ham làm và cầu tiến bộ”.
Người viết: “Thanh liêm là trong sáng, không tham lam”. Người mở rộng đối tượng cần thực hiện hành vi Liêm không chỉ trong tầng lớp quan lại như chế độ phong kiến, mà ngày nay là tất cả các thị dân: “Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, kẻ làm quan nếu ta không đục khoét người ta gọi là LIÊM, chữ Liêm đó chỉ có nghĩa là thân… Ngày nay, nước ta là nước Dân Chủ Cộng Hòa, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn, là ai cũng phải LIÊM…
Chữ LIÊM phải đi đôi với chữ KIỆM. Cũng như chữ KIỆM phải đi đôi với chữ TÂM. Có KIẾM thì mới có GIỚI HẠN”. Theo Người, đối lập với liêm chính là gian dối. Người ăn viết: “Vì xa hoa mà sinh ra lòng tham. Tham tiền, tham ruộng đất, tham danh, tham ăn, và một cuộc sống yên bình đều ĐÚNG.” Ông nhìn nhận những việc làm bất lương của các phần tử từ quan lại, binh lính đến dân gian: “Cán bộ không tin quan mà đục khoét dân, ăn cắp của công tư, thương lái mua 1 bán 10, mua chui chợ đen, chợ đỏ , đầu cơ tích trữ Người có tiền cho vay cắt cổ, ví có đồng bào Thợ cày không đi đào mương mà gánh nước của dân lang thang Người đi làm (nghề gì) lợi dụng lúc khó khăn để bắt chẹt con người. Những con bạc chỉ muốn quay lưng làm của riêng… đều tham lam. Dìm người tốt, giữ địa vị và thanh danh là đạo (đạo là bắt bớ) Việc phải làm, nhưng sợ khó khăn gian nguy không kể xiết, là tham lam tham lam. Bảo mà rút lui, không đánh là tham dự vào cái chết của kẻ sĩ. Góc độ đó là trái với chữ LIÊM”. Người chỉ ra hậu quả xấu xa của việc làm gian dối: “ Làm BẤT TÍN dẫn đến tội cướp tài sản. Công khai hay bí mật, trực tiếp hay gián tiếp, không trung thực là hành vi trộm cắp. Mạnh Tử dẫn lời Khổng Tử, Mạnh Tử: “Khổng Tử nói: Người bất lương không bằng vật. Mạnh Tử nói: Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy. Người đề cao cơ chế kiểm soát, giáo dục và thực thi pháp luật : “Muốn thực hiện chữ Liêm thì phải tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp luật, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên”, theo Người, đối tượng phải kiểm soát trước hết là những người có chức có quyền, vì “cấp cao trao quyền lớn, cấp thấp trao quyền nhỏ. Dù lớn hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là cơ hội để đục khoét, là cơ hội để ăn nên làm ra, cơ hội để “công tư phân minh”.
Vì vậy, người cán bộ phải thực hiện chữ LIÊM trước, phải làm gương mẫu cho dân”. Một công việc hết sức quan trọng để chống tham ô, tham lam là nâng cao dân trí. Người viết: “Quan tham mà ngu thì dân hiểu mà không chịu mặc lót, thì quan dù không liêm cũng phải ra THỜ. Cho nên dân phải biết quyền, phải biết kiểm soát cán bộ, giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”.Muốn chống cán bộ tham ô, sách nhiễu nhân dân, đi đôi với nâng cao dân trí, nêu cao đạo đức công vụ thì pháp luật phải thông suốt. nghiêm túc: “Pháp luật phải nghiêm trị những kẻ gian dối, bất kể hắn sống ở đâu, làm nghề gì?”
Chủ tịch Hồ Chí Minh mong mỗi người phải nhận rõ rằng gian dối là điều đáng xấu hổ, vô liêm sỉ là có tội với nước, với dân, trong đó cán bộ có vai trò quan trọng trong việc nêu gương: Cán bộ thi đua thực hành liêm chính thì sẽ sự nghiệp liêm chính trong nhân dân.Những năm 1923-1924, khi Người hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, mặc dù điều kiện và môi trường làm việc rất tốt, Người được cấp trên chú ý và đánh giá cao, nhưng những điều đó không giữ lòng người. cuộc sống hiện tại ở Liên Xô. Ngược lại, ông nhiều lần gặp gỡ các đồng chí lãnh đạo bày tỏ mong muốn được về nước tuyên truyền và tổ chức phong trào cách mạng. Người nói rõ trong thư gửi các bạn hoạt động ở Pháp năm 1923: “Đối với tôi, câu trả lời rất rõ ràng: Về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ. rèn luyện họ, đưa họ ra đi đấu tranh giành độc lập.” Mặc dù mang bản án tử hình do chính quyền Nam triều tuyên bố năm 1927, Nguyễn Ái Quốc với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản đã tổ chức 5 lần về nước trong các năm sau: 1924 (từ Quảng Châu), 2 lần vào năm 1928 (từ Lào và Thái Lan), năm 1940 từ Vân Nam (Trung Quốc) và năm 1941 từ Quảng Tây (Trung Quốc).