Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kinh ngạc trong việc chọn giống vật nuôi và cây trồng. Trong bài viết dưới đây hãy cùng chúng tôi tìm hiểu thành tựu chọn giống vật nuôi và cây trồng.
Mục lục bài viết
1. Thành tựu chọn giống cây trồng:
Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Công nghệ Nông nghiệp là một đơn vị nổi tiếng trong việc tạo ra các giống cây trồng mới ở Việt Nam. Đã có nhiều thành công đáng kể được ghi nhận trong các lĩnh vực lúa, ngô, đậu đỗ, cây ăn quả, chè, cà phê, sắn, rau, hoa, nấm và nhiều loại cây trồng khác.
Lúa: Viện đã thành công trong việc tạo ra các giống lúa lai mới. Hiện tại, đã có 5 giống lúa lai được công nhận, trong đó có 2 giống 3 dòng và 3 giống 2 dòng. Các giống lai này có năng suất và chất lượng tốt hơn so với các giống lai từ Trung Quốc. Đặc biệt, giống lúa lai 2 dòng như HYT102, HYT103, HYT108 đã xuất sắc vượt qua giống lai 2 dòng của Trung Quốc về năng suất và chất lượng. Trong khi đó, giống lúa lai 3 dòng HYT100 có hạt gạo đẹp và cơm tương đương với giống lúa lai tốt nhất từ Trung Quốc.
Ngô: Viện đã công nhận 20 giống ngô mới, trong đó có 17 giống lai. Các giống ngô mới này có năng suất tương đương với các giống ngô được giới thiệu từ các công ty nước ngoài. Đáng chú ý, các giống ngô mới còn có khả năng chống chịu hạn, sâu bệnh tốt hơn và có giá cả thấp hơn từ 30 – 40%. Điều này đã giúp các giống ngô Việt Nam có thể cạnh tranh trên thị trường trong nước và thậm chí xuất khẩu sang các nước trong khu vực như Lào, Trung Quốc. Sự tăng trưởng năng suất ngô đã mang lại lợi nhuận ước tính khoảng 500 tỷ đồng mỗi năm.
Đậu đỗ: Viện đã công nhận 9 giống lạc mới và 12 giống đậu tương mới. Trong số đó, các giống lạc nổi bật với năng suất cao đã góp phần đưa năng suất lạc tăng trên toàn quốc. Trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến nay, năng suất lạc đã tăng từ 12,8 tạ/ha lên 21,0 tạ/ha. Đáng chú ý, một số giống còn có khả năng đạt năng suất trên 50 tạ/ha trên diện rộng.
Cây ăn quả: Viện đã thành công trong việc tạo ra các giống cây ăn quả mới. Đặc biệt, đã được chọn và phát triển 4 giống vải chín sớm, có thời gian chín sớm hơn giống vải Thanh Hà khoảng 20 – 25 ngày. Ngoài ra, còn có 2 giống nhãn chín muộn hơn các giống khác khoảng 20 ngày. Viện cũng đang mở rộng diện tích trồng giống cam không hạt V2 tại nhiều vùng cam truyền thống như Phủ Quỳ, Anh Sơn (Nghệ An), Cao Phong, Hòa Bình. Đồng thời, Viện cũng đã tuyển chọn và thuần hóa được nhiều giống cây ăn quả ôn đới như hồng, lê, đào, mận và đang được trồng ở một số vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có khí hậu đặc thù.
Chè: Viện đã tạo ra các giống chè mới. Các giống chè mới do Viện chọn tạo đã đạt được nhiều thành công. Hiện nay, giống chè LPD1 chiếm diện tích 15.000ha (12%), giống chè LPD2 chiếm diện tích 18.000ha (14%) và giống chè PH1 chiếm diện tích 13.000ha (10%). Đặc biệt, ở tỉnh Nghệ An, các giống chè mới do Viện lai tạo chiếm 96% diện tích trồng chè. Giá chè nguyên liệu từ các giống mới đã tăng 50% so với các giống chè truyền thống. Điều đáng chú ý, một số giống chè mới do Viện lai tạo đã được sử dụng để chế biến chè ô long và chè xanh đặc sản.
Cà phê: Viện cũng đã tạo ra các dòng cà phê vối mới. Các dòng cà phê vối mới bao gồm TR4, TR5, TR6, TR7, TR8, TR9, TR10, TR11, TR12, TR13. Các dòng cà phê này có năng suất bình quân từ 4 – 6 tấn nhân/ha, khối lượng 100 hạt từ 17 – 19g và kháng cao với bệnh gỉ sắt. So với các dòng cà phê thực sinh, năng suất của các dòng cà phê vối mới cao hơn từ 0,5 đến 1 tấn nhân/ha.
Sắn: các giống sắn mới chủ lực như KM94, KM140, KM98-7 đã phủ gần như toàn bộ diện tích trồng sắn trên cả nước trong 10 năm qua. Nhờ vào các giống này, năng suất sắn trung bình đã tăng lên gần 18 tấn/ha.
Rau: Viện đã tạo ra nhiều giống rau mới, gồm cà chua lai FM20, FM29 có năng suất đạt 45 – 50 tấn/ha, dưa chuột lai CV5, CV11, CV29 và CV209 có khả năng trồng được nhiều vụ trong năm với năng suất trung bình đạt 40 – 55 tấn/ha. Ngoài ra, còn có 2 giống ớt cay lai HB9, HB14 có thời gian sinh trưởng ngắn và năng suất trung bình đạt 30 – 35 tấn/ha, cao hơn so với các giống phổ biến 10 – 15%.
Cây hoa: Viện đã thành công trong việc tạo ra 13 giống hoa mới của các loài như hoa hồng, cúc, đồng tiền, lily, loa kèn, lan hồ điệp và layơn. Các giống hoa mới và kỹ thuật trồng hoa hiện đại đã giúp miền Bắc từ chỗ không trồng được hoa lily, đến nay hầu hết các tỉnh đều có khả năng trồng hoa lily vào vụ Đông – Xuân. Sản lượng hoa lily đạt trên 10 triệu cây (cành) mỗi năm, chất lượng hoa không thua kém so với hoa nhập khẩu từ Côn Minh, Trung Quốc. Các giống hoa và quy trình kỹ thuật trồng hoa đã được chuyển giao cho hơn 30 tỉnh. Ngoài ra, Viện cũng đã nghiên cứu và làm chủ công nghệ sản xuất hoa lan Hồ Điệp quy mô công nghiệp, từ việc sản xuất cây in vitro, nuôi cấy, xử lý để ra hoa cho đến thương mại hóa sản phẩm.
Nấm ăn và nấm dược liệu: Viện đã khôi phục và phát triển nghề trồng nấm trong giai đoạn từ năm 1996 đến 2012 với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng. Sản lượng nấm đã tăng từ 50 tấn vào năm 1995 lên 270.000 tấn vào năm 2010. Đồng thời, Viện đã nhập nội được 120 chủng giống nấm khác nhau và đưa vào sản xuất đại trà 16 chủng giống nấm. Trong số này, 3 chủng giống nấm đã được công nhận chính thức, 7 chủng giống nấm được công nhận tạm thời và 11 quy trình công nghệ được công nhận là tiến bộ kỹ thuật. Nhiều giống nấm chất lượng cao như nấm Trân châu, Ngọc trâm, Chân dài và nấm Linh chi đã trở nên phổ biến trong sản xuất nấm.
Ngoài ra, Viện cũng đã tạo ra nhiều giống cây trồng mới khác như cây điều, ca cao, chuối tiêu hồng, chanh leo và cao su chịu lạnh. Các giống cây trồng này đã được phổ biến và đóng góp quan trọng cho nền nông nghiệp Việt Nam.
2. Thành tựu chọn giống vật nuôi:
Viện Nghiên cứu và Phát triển nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc chọn tạo giống vật nuôi. Các thành tựu này đã góp phần quan trọng trong nâng cao sản xuất nông nghiệp và tăng cường năng suất, chất lượng của các loại vật nuôi tại Việt Nam.
Trước tiên, viện đã thành công trong việc nghiên cứu và chuyển giao dòng lợn nái lai tổng hợp giữa hai nhóm giống Landrace × Yorkshire làm nái nền trong sản xuất lợn thương phẩm. Đồng thời, viện cũng đã lai giống thành công dòng lợn đực cuối cùng bằng việc kết hợp giữa hai nhóm giống Pietrain và Duroc. Nhờ vào sự nghiên cứu và ứng dụng giống lợn này, Thương hiệu Bình Thắng đã được xây dựng thành công và trở thành một trong những địa điểm cung cấp lợn giống tốt nhất ở phía Nam. Mỗi năm, Viện cung cấp khoảng 700 lợn đực giống, 2000 lợn nái và 250.000 con gà giống cho 40 tỉnh thành trong toàn quốc, trong đó có 70% ở các tỉnh phía Nam.
Ngoài ra, Viện cũng đã lai tạo thành công giống gà thịt thả vườn BT2, một giống gà thích nghi tốt với điều kiện chăn nuôi nông nhỏ lẻ ở các hộ gia đình. Giống gà BT2 có năng suất trứng đạt 195 – 200 trứng/mái/năm, năng suất thịt của dòng trống lúc 12 tuần tuổi đạt 2,0 – 2,2 kg, và tiêu tốn thức ăn đạt 2,4 – 2,6kg. Từ năm 2002 đến nay, viện đã nuôi giữ giống gốc hai dòng gà BT2 với số lượng 1000 mái ông bà/năm, đảm bảo nguồn giống chất lượng cho người chăn nuôi.
Bên cạnh đó, viện đã thực hiện việc cung cấp giống bò lai cho các trang trại và hộ chăn nuôi nhằm cải tạo đàn bò địa phương. Viện đã chuyển giao 150 bò đực giống lai Sind, lai Brahman, Droughtmaster cho việc cải tạo đàn bò địa phương. Đồng thời, viện cũng đã cung cấp 30 trâu đực Murah chất lượng tốt để cải tạo đàn trâu địa phương tỉnh Bình Phước, góp phần gia tăng tầm vóc đàn trâu lên khoảng 15%. Nhờ vào việc chọn tạo giống vật nuôi này, năng suất và chất lượng của đàn bò và đàn trâu đã được cải thiện đáng kể.
Viện Nghiên cứu và Phát triển nông nghiệp cũng đã đạt được nhiều tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực thức ăn chăn nuôi. Đặc biệt, viện đã xây dựng ngân hàng dữ liệu về thành phần dinh dưỡng của thức ăn, tỷ lệ tiêu hóa của các loại thức ăn và nhu cầu dinh dưỡng của các loại gia súc. Những tiến bộ này đã được chuyển giao vào sản xuất, góp phần giảm chi phí thức ăn từ 5 – 10% và tăng trọng từ 5 – 7%, tạo ra sự hiệu quả kinh tế đối với người chăn nuôi.
Cuối cùng, viện cũng đã chọn tạo thành công nhiều giống tằm lưỡng hệ nguyên và giống tằm lai tứ nguyên phù hợp với từng khu vực. Việc chọn tạo giống tằm này đã đóng góp vào việc phát triển ngành chăn nuôi tằm và gia tăng năng suất tằm ở các vùng miền đất nước.
Những thành tựu trong việc chọn tạo giống vật nuôi của Viện Nghiên cứu và Phát triển nông nghiệp Việt Nam đã đem lại nhiều lợi ích đáng kể cho người chăn nuôi và ngành nông nghiệp nước ta. Qua sự nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, viện đã đóng góp vào việc cải thiện năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế của sản xuất chăn nuôi, đồng thời góp phần xây dựng nền nông nghiệp bền vững và phát triển ở Việt Nam.
3. Mẫu báo cáo về kết quả thực hành tìm hiểu thành tựu chọn giống vật nuôi và cây trồng:
Mẫu báo cáo
Họ và tên ………….
Lớp …………………
Chỉ tiêu đánh giá | Kết quả đánh giá | Người đánh giá | ||
Tốt | Đạt | Không đạt | ||
Thực hiện quy trình | ||||
Kết quả thực hành |