Vốn là yếu tố căn bản để các doanh nghiệp duy trì sự tồn tại và phát triển, doanh nghiệp huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau theo quy định của pháp luật, trong đó có hoạt động huy động vốn thông qua việc bán cổ phần- người ta gọi đó là tài trợ bằng vốn chủ sở hữu. Cùng bài viết tìm hiểu về tài trợ bằng vốn chủ sở hữu là gì? Các lưu ý về tài trợ bằng vốn chủ sở hữu?
Mục lục bài viết
1. Tài trợ bằng vốn chủ sở hữu là gì?
Tài trợ vốn chủ sở hữu là việc bán cổ phần của công ty để huy động vốn. Các nhà đầu tư mua cổ phần cũng đồng thời mua quyền sở hữu đối với công ty. Tài trợ vốn chủ sở hữu có thể đề cập đến việc bán tất cả các công cụ vốn chủ sở hữu, chẳng hạn như cổ phiếu phổ thông , cổ phiếu ưu đãi, chứng quyền cổ phiếu, v.v. Trong khi thuật ngữ tài trợ vốn chủ sở hữu đề cập đến việc tài trợ cho các công ty đại chúng được niêm yết trên sàn giao dịch, thuật ngữ này cũng áp dụng cho việc tài trợ cho các công ty tư nhân.
Nguồn vốn chủ sở hữu đặc biệt quan trọng trong giai đoạn khởi động của một công ty để tài trợ cho tài sản của nhà máy và chi phí hoạt động ban đầu. Các nhà đầu tư kiếm lời bằng cách nhận cổ tức hoặc khi cổ phiếu của họ tăng giá.
2. Các lưu ý về tài trợ bằng vốn chủ sở hữu:
2.1. Về cách thức hoạt động của tài trợ bằng vốn chủ sở hữu:
Tài trợ vốn chủ sở hữu liên quan đến việc bán vốn cổ phần phổ thông và bán các công cụ vốn cổ phần hoặc gần như vốn chủ sở hữu khác như cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi và các đơn vị vốn chủ sở hữu bao gồm cổ phiếu phổ thông và chứng quyền.
Một công ty khởi nghiệp phát triển thành một công ty thành công sẽ có nhiều vòng tài trợ vốn chủ sở hữu khi nó phát triển. Vì một công ty khởi nghiệp thường thu hút các loại nhà đầu tư khác nhau ở các giai đoạn phát triển khác nhau, nó có thể sử dụng các công cụ vốn chủ sở hữu khác nhau cho các nhu cầu tài chính của mình.
Tài trợ bằng vốn chủ sở hữu khác với tài trợ bằng nợ; trong tài trợ bằng nợ, một công ty giả định một khoản vay và trả lại khoản vay theo thời gian với lãi suất, trong khi trong tài trợ vốn chủ sở hữu, một công ty bán một phần sở hữu để đổi lấy vốn.
Ví dụ, các nhà đầu tư thiên thần và nhà đầu tư mạo hiểm – thường là những nhà đầu tư đầu tiên trong một công ty khởi nghiệp – ưa chuộng cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi hơn là cổ phiếu phổ thông để đổi lấy vốn cho các công ty mới bởi vì cổ phiếu cũ có tiềm năng tăng giá đáng kể hơn và một số biện pháp bảo vệ giảm giá trị. Một khi công ty đã phát triển đủ lớn để xem xét việc niêm yết cổ phiếu ra công chúng, nó có thể xem xét bán cổ phần phổ thông cho các nhà đầu tư tổ chức và bán lẻ.
Sau đó, nếu công ty cần thêm vốn, công ty có thể chọn các phương án tài trợ vốn chủ sở hữu thứ cấp, chẳng hạn như chào bán quyền hoặc chào bán các đơn vị vốn chủ sở hữu bao gồm chứng quyền như một chất tạo ngọt.
2.2. Về các nguồn tài trợ bằng vốn chủ sở hữu chính:
– Nhà đầu tư thiên thần: Các nhà đầu tư thiên thần là những cá nhân giàu có mua cổ phần trong các doanh nghiệp mà họ tin rằng có tiềm năng tạo ra lợi nhuận cao hơn trong tương lai. Các cá nhân thường mang kỹ năng kinh doanh, kinh nghiệm và mối quan hệ của họ lên bàn để giúp ích cho công ty về lâu dài.
– Nền tảng huy động vốn cộng đồng: Nền tảng huy động vốn cộng đồng cho phép một số người trong công chúng đầu tư vào công ty với số tiền nhỏ. Các thành viên của công chúng quyết định đầu tư vào các công ty vì họ tin tưởng vào ý tưởng của họ và hy vọng sẽ kiếm lại được tiền với lợi nhuận trong tương lai. Các đóng góp từ công chúng được tổng hợp lại để đạt được tổng mục tiêu.
– Các công ty đầu tư mạo hiểm Các công ty đầu tư mạo hiểm là một nhóm các nhà đầu tư đầu tư vào các doanh nghiệp mà họ cho rằng sẽ phát triển với tốc độ nhanh chóng và sẽ xuất hiện trên các sàn giao dịch chứng khoán trong tương lai. Họ đầu tư một khoản tiền lớn hơn vào các doanh nghiệp và nhận được cổ phần lớn hơn trong công ty so với các nhà đầu tư thiên thần. Phương pháp này còn được gọi là tài trợ vốn chủ sở hữu tư nhân.
– Nhà đầu tư doanh nghiệp: Các nhà đầu tư doanh nghiệp là các công ty lớn đầu tư vào các công ty tư nhân để cung cấp cho họ nguồn vốn cần thiết. Khoản đầu tư thường được tạo ra để thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa hai doanh nghiệp.
– Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO): Các công ty được thành lập tốt hơn có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) . IPO cho phép các công ty huy động vốn bằng cách chào bán cổ phiếu ra công chúng để giao dịch trên thị trường vốn.
3. Ưu điểm và nhược điểm của tài trợ bằng vốn chủ sở hữu:
3.1. Về ưu điểm của tài trợ bằng vốn chủ sở hữu:
– Nguồn tài trợ thay thế
Ưu điểm chính của tài trợ vốn chủ sở hữu là nó cung cấp cho các công ty một nguồn tài trợ thay thế cho nợ. Các công ty khởi nghiệp có thể không đủ điều kiện vay các khoản vay ngân hàng lớn có thể nhận được nguồn vốn từ các nhà đầu tư thiên thần, nhà đầu tư mạo hiểm hoặc các nền tảng huy động vốn cộng đồng để trang trải chi phí của họ. Trong trường hợp này, tài trợ bằng vốn chủ sở hữu được coi là ít rủi ro hơn so với tài trợ bằng nợ vì công ty không phải trả lại cho các cổ đông của mình.
Các nhà đầu tư thường tập trung vào dài hạn mà không mong đợi lợi tức đầu tư ngay lập tức. Nó cho phép công ty tái đầu tư dòng tiền từ hoạt động của mình để phát triển kinh doanh hơn là tập trung vào trả nợ và lãi vay.
– Tiếp cận các mối liên hệ kinh doanh, chuyên môn quản lý và các nguồn vốn khác
Nguồn vốn chủ sở hữu cũng mang lại những lợi thế nhất định cho ban lãnh đạo công ty. Một số nhà đầu tư mong muốn được tham gia vào hoạt động của công ty và có động cơ cá nhân để đóng góp vào sự phát triển của công ty.
Nền tảng thành công của họ cho phép họ cung cấp sự hỗ trợ vô giá dưới hình thức liên hệ kinh doanh, chuyên môn quản lý và khả năng tiếp cận các nguồn vốn khác. Nhiều nhà đầu tư thiên thần hoặc nhà đầu tư mạo hiểm sẽ hỗ trợ các công ty theo cách này. Nó rất quan trọng trong giai đoạn khởi động của một công ty.
3.2. Về nhược điểm của tài trợ bằng vốn chủ sở hữu:
– Pha loãng quyền sở hữu và kiểm soát hoạt động
Bất lợi chính đối với tài trợ vốn chủ sở hữu là chủ sở hữu công ty phải từ bỏ một phần quyền sở hữu và làm loãng quyền kiểm soát của họ. Nếu công ty trở nên có lãi và thành công trong tương lai, một tỷ lệ lợi nhuận nhất định của công ty cũng phải được chia cho các cổ đông dưới hình thức cổ tức.
Nhiều nhà đầu tư mạo hiểm yêu cầu tỷ lệ sở hữu từ 30% -50%, đặc biệt là đối với các công ty khởi nghiệp thiếu nền tảng tài chính vững chắc. Nhiều người sáng lập và chủ sở hữu công ty không muốn làm loãng đi một lượng lớn sức mạnh công ty của họ, điều này làm hạn chế các lựa chọn của họ để tài trợ vốn cổ phầnchủ sở hữu.
– Thiếu lá chắn thuế
So với nợ, các khoản đầu tư cổ phiếu không có lá chắn thuế. Cổ tức được chia cho các cổ đông không phải là một khoản chi phí được khấu trừ thuế, ngược lại các khoản thanh toán lãi vay đủ điều kiện để được hưởng lợi về thuế . Nó làm tăng thêm chi phí tài trợ vốn chủ sở hữu.
Về dài hạn, tài trợ vốn chủ sở hữu được coi là hình thức tài trợ tốn kém hơn so với vay nợ. Đó là bởi vì các nhà đầu tư yêu cầu tỷ suất sinh lợi cao hơn so với người cho vay. Các nhà đầu tư phải chịu rủi ro cao khi tài trợ cho một công ty, và do đó mong đợi lợi nhuận cao hơn.
Cân nhắc đặc biệt:
Quá trình tài trợ vốn chủ sở hữu được điều chỉnh bởi các quy tắc do cơ quan chứng khoán địa phương hoặc quốc gia áp dụng ở hầu hết các khu vực pháp lý. Quy định như vậy chủ yếu được thiết kế để bảo vệ công chúng đầu tư khỏi những nhà điều hành vô đạo đức, những người có thể huy động vốn từ các nhà đầu tư không nghi ngờ và biến mất cùng với số tiền thu được.
Do đó, tài trợ vốn chủ sở hữu thường đi kèm với một bản ghi nhớ chào bán hoặc bản cáo bạch, trong đó có thông tin phong phú giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định sáng suốt về giá trị của khoản tài trợ. Bản ghi nhớ hoặc bản cáo bạch sẽ nêu rõ các hoạt động của công ty, thông tin về các cán bộ và giám đốc của công ty, cách sử dụng tiền tài trợ, các yếu tố rủi ro và báo cáo tài chính.
Sự quan tâm của nhà đầu tư đối với hoạt động tài trợ vốn chủ sở hữu phụ thuộc đáng kể vào trạng thái của thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn cổ phần nói riêng. Mặc dù tốc độ ổn định của nguồn tài trợ vốn chủ sở hữu là một dấu hiệu của niềm tin của nhà đầu tư, nhưng dòng chảy tài chính có thể cho thấy sự lạc quan quá mức và một thị trường thấp nhất.
Ví dụ, các đợt IPO của dot-com và các công ty công nghệ đã đạt mức kỷ lục vào cuối những năm 1990, trước khi “đống đổ nát công nghệ” nhấn chìm Nasdaq từ năm 2000 đến 2002. Tốc độ tài trợ vốn chủ sở hữu thường giảm mạnh sau khi thị trường điều chỉnh liên tục do nhà đầu tư không thích rủi ro trong những giai đoạn như vậy.