Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi được biết đến là một áng thơ hùng hồn, đánh dấu chiến công hiển hách của dân tộc. Hôm nay để có thể hiểu rõ hơn về nội dung của bài thơ, bài viết này sẽ cung cấp đến cho các bạn những bài phân tích Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi chọn lọc và hay nhất!
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi chọn lọc:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm, vị trí đoạn trích
Thân bài:
Có thể khẳng định, đoạn một là tư tưởng nhân văn mới làm cơ sở khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc. Tư tưởng này xuất phát từ tình hình đất nước được Nguyễn Trãi khái quát sâu sắc như một chân lý. Chân lý đó khẳng định nhân loại đang chiến đấu chống quân xâm lược và chỉ khi đó chúng mới vạch trần được luận điệu lừa bịp mà tác giả đưa ra ở đoạn 2. Đoạn 2 của tác phẩm là bản cáo trạng tội ác của Giặc Minh. Tố cáo ách cai trị tàn bạo của nhà Minh:
Tàn sát người dân vô tội
Khai thác, đánh thuế, bóc lột dã man, v.v.
Phá hủy toàn bộ môi trường
⇒ Tội ác ghê tởm, lũ giặc dã man
Có những tội ác của kẻ thù thì cái nhân nghĩa mà tác giả đưa ra mới càng thấy rõ được tính đúng đắn của nó. Bởi lẽ:
Độc lập chủ quyền của chúng ta là quyền thiêng liêng, có trước, không thể thay đổi
Khẳng định chủ quyền của mình như bao dân tộc khác là chúng ta có phong tục riêng, lịch sử riêng, xưa nay chưa bao giờ thiếu.
Nền văn hiến của chúng ta có hàng nghìn năm lịch sử: đây là yếu tố cơ bản để xác định chủ quyền quốc gia. Bất kỳ kẻ xâm lược nào cũng sẽ tìm cách phủ nhận sự thật hiển nhiên này.
Nguyễn Trãi vạch trần thủ đoạn của giặc, vạch trần âm mưu cướp nước của chúng. Chúng lấy chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” nhưng thực chất là cướp nước ta
– Tội ác mà chúng gây ra đối với chúng ta là hết sức man rợ và dã man.
– Trước những đau khổ, gian khổ của nhân dân, tác giả vô cùng đau xót, toàn bài căm phẫn trước tội ác của giặc, đồng cảm, xót xa trước những đau khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng.
Nghệ thuật so sánh: Tội ác của giặc cao như núi Nam Sơn; Sự nhơ nhớp của giặc nhiều như nước Đông Hải. Dùng cái vô cùng để nói cái vô cùng, tội ác của chúng cũng thật khôn lường, không thể chứa nổi.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật
2. Những bài phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo hay nhất:
2.1. Mẫu 1:
“Bình Ngô Đại Cáo” là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn, nhà chính trị Nguyễn Trãi. Tác giả soạn thảo bài cáo này vào mùa xuân năm 1428, để thay mặt Lê Lợi tuyên bố chiến thắng quân Minh xâm lược. Bản cáo trạng không chỉ khẳng định độc lập, chủ quyền của Đại Việt mà còn là bản án đanh thép, lên án tội ác không thể dung thứ của bè lũ bán nước, cướp nước. Cùng phân tích đoạn 2 của Bát Đại Ngô Đồng để thấy rõ hơn nhé!
Đoạn một, tác giả tự hào, hãnh diện, tuyên bố với thế giới và thế giới về lịch sử hào hùng dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Ông khẳng định chủ quyền văn hóa, lãnh thổ của Nam Bắc triều, mỗi bên mạnh một phương. Ông tin rằng thiên tài ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Tại sao lại xâm lược và cướp bóc lẫn nhau? Nhờ lối dẫn đó, sang đến đoạn hai, tác giả trình bày ngay nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và nhà Minh:
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Đi sâu vào tìm hiểu đoạn 2 Có thể thấy rõ, chỉ qua 5 câu thơ ngắn ngủi thôi nhưng tác giả đã miêu tả được toàn cảnh bức tranh xã hội rối ren lúc bấy giờ. Đó là những thủ lĩnh, người đứng đầu đất nước đang bị thôn tính, nhu nhược, tham lam, chia bè phái khiến nhân dân oán hận. Trong khi đó, giặc Minh rình rập lâu ngày bên ngoài, nhân cơ hội gây loạn. Chính sự hỗn loạn kết hợp với các phe phái bán nước và cướp nước đã đặt Đại Việt vào thế cân bằng. Nguyễn Trãi là một nhà chính trị nên những lập luận của ông rất sắc bén và hợp lý.
Bài thơ này đã thể hiện rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh và bọn gian ác bán nước cầu vinh.
Vì thế Đại Việt lâm nguy. Bọn bán nước, cướp nước ra sức hành hạ dân đen, gây bao tội ác. Sau khi đánh chiếm nước ta, quân Minh xâm lược Đại Việt trong hai mươi năm với những chính sách vô cùng hà khắc và tàn bạo.
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”.
Chứng kiến cảnh thương tâm của nhân dân, nhà chính trị nhân từ Nguyễn Trãi đã khẳng định tội ác của quân giặc là “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Đoạn thơ dường như vừa nói lên nỗi lòng đau đáu vì nước của tác giả, vừa như những lời đay nghiến kẻ thù. Sự tàn bạo của họ không còn do con người tạo ra nữa. Dối trời, dối dân. Chúng không chỉ cướp bóc của cải, sức người mà còn tàn phá môi trường, tận diệt sâu bọ, cây cỏ. Hơn nữa, chúng đã trực tiếp tàn sát những người da đen, những người dân lành vô tội. Người dân quanh năm gắn bó với ruộng đồng, hiền lành, đức độ. Vậy mà họ chà đạp không tha. Bằng một loạt liệt kê, kể liên tiếp những tội ác của quân thù, tác giả như trút được bao cảm xúc căm giận, căm thù. Cảm xúc đó cũng là cảm xúc chung của toàn dân Đại Việt lúc bấy giờ. Chỉ muốn vùng lên chiến đấu, chống lại kẻ thù.
Phân tích đoạn 2 Đại cáo, ta càng thấy sự tài tình trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật văn chương của Nguyễn Trãi. Ông đã dùng phép nhân hóa suy đoán để vạch trần tội ác tày trời của bọn cướp. Nếu sống giữa thời đó, lớn lên trong ách bạo ngược ấy mới thấy rõ quân giặc không khác gì súc vật, coi mạng người như rác rưởi.
Phân tích đoạn 2 của Cựu ước là lúc người đọc cảm thấy rùng mình trước cảnh tang tóc của người dân Đại Việt xưa. Tưởng chừng chỉ là một cảnh trong phim cổ trang, nhưng hóa ra lại là sự thật hiển nhiên, được lịch sử ghi nhận.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha”
Sự tàn ác man rợ của quân xâm lược không chỉ làm cho người dân thương xót mà còn căm giận cả thiên nhiên, cả biển cả cũng không thể gột rửa được mùi nhơ nhớp, đất trời cũng không chịu nổi. Với việc sử dụng phép đối xứng “ác”, “cây tre Nam Sơn – nước Đông Hải”, “lòng trời đất”… tác giả như càng nhấn mạnh thêm sự sai trái của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Anh cũng đem ra những đồ vật vô tri, vô giác để khẳng định việc xen vào cuộc sống của người khác là tội lỗi không thể tha thứ. Ông càng chứng minh rằng, không chỉ con người mà mọi sinh vật sinh ra trên đời đều có quyền sống.
Có thể nói, khi phân tích đoạn thứ hai, người đọc như đang xem một bộ phim lịch sử thấm đẫm máu và nước mắt. Có những nỗi đau, mất mát của dân tộc mà không gì có thể bù đắp được. Nhưng người đọc cũng có thể cảm nhận được sự kiên cường, bất khuất của người dân Đại Việt. Bằng ngôn từ mạnh mẽ, hùng hồn, trôi chảy trong từng câu chữ, hình ảnh, nhà chính luận Nguyễn Trãi một lần nữa mạnh mẽ lên án tội ác của quân thù.
2.2. Bài mẫu 2:
“Văn học không phải là cách đưa người đọc thoát ly hay lãng quên; Ngược lại, văn học là thứ vũ khí cao cả và mạnh mẽ mà chúng ta có, vừa để tố cáo vừa để thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác.” (Thạch Lam). Đúng vậy, văn học là cánh tay đắc lực của mỗi giai đoạn lịch sử, để vạch trần bộ mặt giả dối của xã hội, lên án các thế lực bạo tàn, với tư cách đó là bản hùng ca cổ đại “Bình Ngô đại cáo” ở đoạn 2 đã phơi bày tội ác nhơ nhớp của quân xâm lược mà bao năm sau cũng không thể gột rửa hết.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi đều là những lớp từ, lớp ngữ sắc sảo, trình tự lập luận logic, ngay cả khi luận tội quân xâm lược, mạch lập luận vẫn hết sức sắc bén, rõ ràng. Đầu tiên, nhà thơ chỉ ra những động cơ thâm độc và thói đạo đức giả của kẻ thù:
“…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Ngay từ những câu thơ mở đầu này, người đọc có thể thấy ngay âm mưu bất thành của kẻ thù, đồng thời vạch trần bộ mặt giả dối, âm mưu thâm độc của kẻ thù. Chúng dùng thủ đoạn xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với con bài chính Trần Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng đô hộ nước ta. Chính sách của họ đầy dối trá và lừa lọc:
“Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm”
Nhờ ngòi bút sắc sảo, nhạy bén của Nguyễn Trãi ta mới nhận ra được bộ mặt bất nhân, vô nhân tính đằng sau những âm mưu thâm độc của chúng, tiếc thay công lí không bao giờ đứng về phía bọn phi nhân, tội ác của chúng trời đất không dung thứ:
“Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”
Nhưng đau đớn hơn, là tội ác mà họ đã gây ra cho dân tộc, cho những người dân đỏ đen đầy ngậm ngùi. Dưới ngòi bút sắc sảo của nhà thơ Nguyễn Trãi, chưa bao giờ hình ảnh con người hiện lên chua xót, cay đắng và đầy căm phẫn đến thế:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
Dân đen, con đỏ”, những con người lương thiện, quanh năm làm ăn khó nhọc, một lòng gắn bó với tấc đất, nhà cửa, ruộng vườn để không bị giày xéo dưới gót giày bẩn thỉu của chúng. Hình ảnh nhân hóa cũng như bút pháp miêu tả đầy ấn tượng của Nguyễn Trãi đã một lần nữa vạch trần tội ác man rợ, tàn bạo của quân xâm lược lúc này là đội quân điên cuồng, cuồng tín mơ hồ về lẽ đời con người như rác rưởi, sẵn sàng chà đạp, chà đạp, ăn thịt, uống máu người không tanh. Tội ác của chúng, ngàn năm sau, sử sách còn để lại, trời không dung đất. Không dừng lại ở đó, quân Minh xâm lược còn ra sức cướp đoạt của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa mãn nhu cầu vật chất, thú vui xa xỉ, xa hoa, đồi trụy của chúng bằng cách ép buộc, bóc lột, đe dọa người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp, cuộc sống bị đày đọa đến cùng cực:
“…Những người bị bắt xuống biển để tìm ngọc trai, mệt mỏi vì cá mập,
Những kẻ bị đưa vào núi đào vàng, khốn khổ vào rừng sâu nước độc:
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Thủ pháp liệt kê được sử dụng đặc biệt trong trường hợp này, như để nhấn mạnh, như để tô điểm thêm cho trang sử tội ác đẫm máu, nhơ nhớp của bọn cường hào không bằng cầm thú thời bấy giờ. Ngôn từ miêu tả, như thấy được sự rạo rực, căm giận, bức bách của nhà văn khi nghĩ đến cảnh con người bị giày xéo, bị giày xéo dưới gót giày dã man, tàn bạo của kẻ thù.
Bằng ngôn từ mạnh mẽ, hùng hồn thấm nhuần trong từng câu thơ, mạch chảy của bài thơ, một lần nữa Nguyễn Trãi đã vạch trần sâu sắc và bộc lộ bản chất bất nhân, bất nghĩa, tàn ác của quân xâm lược.
3. Bài phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo điểm cao nhất:
Nguyễn Trãi, vị anh hùng dân tộc lừng lẫy của Việt Nam với nhiều công lao và cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Lòng yêu nước như ngọn lửa luôn cháy bỏng trong ông, lớn lên trong thời nước mất nhà tan đã hun đúc và hình thành ở Nguyễn Trãi một trái tim yêu nước nồng nàn. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn nổi tiếng tài năng trên lĩnh vực văn học với những tác phẩm nổi tiếng.
Hầu hết các tác phẩm của ông đều nói về lòng yêu nước sâu sắc, lý tưởng cao cả và đặc biệt là vạch trần tội ác của kẻ thù. Điều đó được thể hiện rất rõ trong bài Bình Ngô Đại Cáo, được thể hiện ở đây qua đoạn thứ hai của tác phẩm. Nguyễn Trãi đã tố cáo và lên án tội ác của quân Minh xâm lược. Bình Ngô Đại Cáo được coi là áng áng văn cổ hùng văn nổi tiếng ghi lại tội ác của quân Minh xâm lược. Tác phẩm được viết khi quân dân ta đánh thắng quân Minh, thể hiện lòng yêu nước đi đầu và lòng căm thù giặc thể hiện rõ trong bản cáo trạng:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, chúng đã bày ra những âm mưu hèn hạ, lợi dụng tình thế nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần để chớp thời cơ xâm lược nước ta. Chính tình thế hỗn loạn đó, quân Minh đã lợi dụng để thực hiện âm mưu đã định từ lâu. Không phải ngày một ngày hai, quân Minh thực hiện chính sách đô hộ nước ta gần hai mươi năm. Mục đích của chúng là xóa bỏ những gì đất nước chúng ta có là văn hóa và lịch sử của đất nước. Ngay cả những đứa trẻ cũng không tha, cho thấy quân Minh vô cùng tàn ác và hung bạo.
Nhưng quân dân ta không bao giờ đầu hàng, tháng ngày dài đằng đẵng, mệt mỏi, ngã xuống nhưng vẫn đứng lên đánh giặc. Quân Minh muốn đô hộ nước ta, muốn thay đổi chính sách, muốn trả thù nước ta. Càng về sau, sự tàn ác của quân Minh càng thể hiện rõ ở chỗ chúng bắt đầu bóc lột sức người, thậm chí đánh đập, tàn phá thiên nhiên.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Những người dân thấp hèn, vô tội luôn bị kẻ thù áp bức, bóc lột nặng nề. Họ càng nhỏ bé, càng không có chỗ đứng trong xã hội, càng bị quân Minh tấn công và đàn áp. Tội ác của giặc dù trời đất cũng không thể dung thứ. Hai câu thơ này khẳng định mạnh mẽ một lần nữa tội ác của quân Minh và đây cũng là bản cáo trạng tội ác của quân xâm lược.
Trúc Nam Sơn, Đông Hải được Nguyễn Trãi nhắc đến trong đoạn trích nhằm nhấn mạnh tội ác của quân Minh:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Quân xâm lược chỉ thấy cái trước mắt mà không nghĩ đến hậu quả về sau. “Trúc Nam Sơn” và “nước Đông Hải” được Nguyễn Trãi nhắc đến để khẳng định không thể kể hết tội ác của đại quân Minh. Họ không bao giờ biết yêu và có một tình yêu trọn vẹn, thậm chí có thể hủy hoại con người họ, thiên nhiên xung quanh. Họ tham lam, ích kỷ để rồi có những gia đình không còn đầy đủ các thành viên.
Chúng làm bao người dân khốn khổ, đất nước phải sống trong cảnh loạn lạc ngày này qua ngày khác không một phút bình yên. Nguyễn Trãi đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật liệt kê nhiều hình ảnh, ví dụ sinh động để người đọc thấy được tội ác ghê tởm của quân Minh đối với nước ta.
Hai câu kết luận của đoạn văn là một sự răn đe mạnh mẽ:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của quân Minh đối với nước ta thật không kể xiết, chúng đã khiến chúng ta lâm vào cảnh nước mất nhà tan, muôn đời không thể dung thứ. Với giọng văn đanh thép, Nguyễn Trãi đã cho người đọc thấy được sự căm phẫn không chỉ của tác giả mà của cả nhân dân ta lúc bấy giờ đối với quân Minh.
Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi có ý nghĩa sâu sắc về tinh thần yêu nước của dân tộc. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt nhất, nhân dân ta cũng không bao giờ gục ngã, đã đoàn kết đánh thắng kẻ thù, làm rạng danh Tổ quốc.