Bạn đã bao giờ tự hỏi điều gì sẽ xảy ra với số tiền bạn gửi trong ngân hàng chưa? Có phải tiền chỉ đơn giản là ở đó? Bạn đã bao giờ nghe về thuật ngữ kinh tế được gọi là số nhân tiền? Bài viết dưới đây sẽ đi giải đáp thắc mắc cho các bạn.
Mục lục bài viết
1. Nhân tử tiền tệ là gì?
Hiện tượng tiền được tạo ra dưới hình thức tạo ra các khoản tín dụng trong nền kinh tế được gọi là số nhân tiền và dựa trên hệ thống ngân hàng dự trữ một phần.
Điều này đôi khi còn được gọi là số nhân tiền tệ. Nó được định nghĩa là giới hạn tối đa mà nguồn cung tiền bị ảnh hưởng khi có những thay đổi về lượng tiền gửi. Hiệu ứng số nhân tiền này thường thấy nhất ở các ngân hàng thương mại vì họ chấp nhận tiền gửi và sau một thời gian, họ giữ tiền như một khoản dự trữ, để bơm thanh khoản vào nền kinh tế, họ bắt đầu phân phối tiền dưới dạng cho vay.
Hệ số nhân tiền là một thuật ngữ tính toán lượng tiền được tạo ra bởi các ngân hàng sử dụng tiền gửi sau khi trừ đi số tiền dành cho dự trữ. Nó cho biết số tiền sẽ tăng lên bao nhiêu lần để đáp ứng với một thay đổi nhất định trong tiền gửi. Số nhân tiền và tỷ lệ dự trữ pháp định có mối quan hệ ngược chiều. Tỷ lệ dự trữ pháp định đề cập đến số lượng tiền gửi mà các ngân hàng dự kiến sẽ có trong tay dưới dạng dự trữ mọi lúc để đối mặt với các tình huống không lường trước được và duy trì niềm tin của công chúng.
2. Công thức số nhân tiền là gì?
Công thức số nhân tiền tệ, hoặc công thức số nhân tiền, có thể được biểu diễn dưới dạng toán học,
Hệ số nhân tiền = 1/r
trong đó r biểu thị tỷ lệ dự trữ hoặc tỷ lệ dự trữ tiền mặt.
– Dưới góc độ lý thuyết số nhân tiền được xác định theo công thức trên, thực tế ngân hàng trung ương có nhiều khả năng kiểm soát mức cung tiền nhưng khả năng này cũng bị hạn chế do một số nguyên nhân sau:
+ Sự rò rỉ ra ngoài lưu thông
+ Những khoản dự trữ dư thừa (tùy ý) có thể có
Như vậy công thức xác định số nhân tiền như trên chỉ tồn tại ở dạng lí thuyết, khi toàn bộ khối lượng tiền tệ được giao dịch qua ngân hàng và các ngân hàng trung gian thực hiện đúng tỉ lệ dự trữ bắt buộc.
– Trên thực tế, số nhân tiền được tính theo MS1, ta có: R =RR + ER
Trong đó:
+ RR là tổng số tiền dự trữ bắt buộc
+ ER là tổng số tiền dự trữ tùy ý
Với giả định ER khác 0 thì R = rd x D x ER, do MB = C + R nên MB = C + rd x D +ER hay có thể viết lại như sau: MB = D * (rd + C/D + ER/D) ⇒ Vì MS = C + D = D x (1+ C/D)
Vậy số nhân tiền mm được xác định theo MS1 (M1) hay số nhân tiền thực tế tính theo MS1
– Các thuật ngữ liên quan:
+ Lượng tiền cơ sở: là toàn bộ lượng tiền mặt lưu hành và lượng tiền dự trữ trong các ngân hàng. Ta có công thức MB = C + R
Trong đó:
C là tiền mặt
R là tiền dự trữ trong các ngân hàng
+ Mức cung tiền: để kiểm soát mức cung tiền, ngân hàng trung ương phải kiểm soát được lượng tiền cơ sở và số nhân tiền. Mức cung tiền có công thức là: MS = mm x MB.
Trong đó:
+ mm là số nhân tiền
+ MS là mức cung tiền
+ MB là lượng tiền cơ sở
– Các yếu tố ảnh hưởng đến số nhân tiền:
+ Tỉ lệ dự trữ bắt buộc (rd)
+ Tỉ lệ dự trữ quá mức (ER/D)
+ Tỉ lệ tiền mặt so với tiền gửi có thể phát hành Séc (C/D)
– Đặc điểm của số nhân tiền tệ:
+ Số nhân tiền tệ luôn lớn hơn 1
+ Số nhân tiền tỉ lệ nghịch với tỉ lệ dự trữ bắt buộc (rd) và tỉ lệ dự trữ quá mức
+ Số nhân tiền tệ tỉ lệ nghịch với tỉ lệ tiền mặt ngoài ngân hàng.
– Ý nghĩa: Xác định số nhân tiền hay còn được gọi là số nhân tiền tệ, thể hiện mức độ lớn nhất mà cung tiền bị ảnh hưởng bởi những thay đổi về số lượng tiền gửi.
3. Các mô hình nhân số tiền:
Do mô hình được trình bày ở đây chỉ là mô hình của số nhân tiền, nên những thay đổi trong nguồn cơ sở tiền tệ có thể được xác định như đã được xác định trong mô hình của Khan (1974). Trong khuôn khổ của Khan, cơ sở tiền tệ chủ yếu là nội sinh, bởi vì tài sản nước ngoài ròng được xác định bởi một số biến trong mô hình, bao gồm tín dụng nội địa ròng của ngân hàng trung ương, vốn được coi là biến chính sách. Chuỗi quan hệ nhân quả từ tín dụng nội địa ròng của ngân hàng trung ương đến nền kinh tế thực có thể được mô tả như sau: sự thay đổi của tín dụng nội địa ròng ảnh hưởng đến lượng tiền, với số nhân tiền; những thay đổi trong dự trữ tiền dẫn đến những thay đổi trong chi tiêu tư nhân, cán cân thương mại và dòng vốn, và những thay đổi này, cùng với chi tiêu chính phủ và xuất khẩu ngoại sinh, xác định mức tổng sản phẩm quốc nội và những thay đổi trong tài sản nước ngoài ròng. Tuy nhiên, mô hình của Khan xác định mối quan hệ tuyến tính giữa tiền dự trữ và cung tiền. Điều này giả định rằng không có sự thay đổi nào trong hành vi của công chúng hoặc các ngân hàng; số nhân tiền không đổi. Do đó, không thể phân tích tác động đối với cung tiền của các công cụ chính sách tiền tệ như yêu cầu dự trữ bắt buộc và/hoặc các quy định về lãi suất. Hơn nữa, không thể xem xét sự phụ thuộc lẫn nhau giữa cơ số tiền và số nhân tiền thông qua cơ chế lãi suất. Mô hình số nhân tiền được phát triển ở đây cố gắng bổ sung cho đặc điểm kỹ thuật của Khan về quy trình cung tiền.
Mô hình số nhân tiền hàng năm bao gồm ba định nghĩa và hai phương trình hành vi; cái sau được thể hiện ở dạng tuyến tính log:
trong đó các biến được định nghĩa như sau:
Biến nội sinh:
C = ngoại tệ ngoài ngân hàng
MO = cung tiền, được xác định trong mô hình
Re = mức dự trữ vượt mức
Rq = mức dự trữ bắt buộc
TD = tổng tiền gửi tư nhân tại các ngân hàng
Biến ngoại sinh
GDP = tổng sản phẩm quốc nội theo giá hiện hành 2
RM = tiền dự trữ hoặc tiền mạnh, được xác định trong mô hình
RVZ = lãi suất trong nước
Rus = lãi suất nước ngoài
4. Hiệu ứng số nhân là gì?
Một thuật ngữ phổ biến trong kinh tế học, hiệu ứng số nhân m xác định quá trình tăng hoặc giảm tỷ lệ thu nhập cuối cùng do việc bơm hoặc rút vốn. Hiệu ứng Số nhân hỗ trợ đáng kể trong việc đo lường tác động của những thay đổi trong các hoạt động kinh tế khác nhau như đầu tư hoặc chi tiêu và tác động của nó đối với tổng sản lượng kinh tế.
Số nhân = Thay đổi thu nhập/Thay đổi chi tiêu
Hiệu ứng số nhân cung tiền
Hiệu ứng số nhân hầu hết được các nhà kinh tế và chủ ngân hàng nhìn nhận từ góc độ ngân hàng và cung tiền. Quá trình này được gọi là hiệu ứng số nhân nhà cung cấp tiền. Nói chung, có nhiều mức cung tiền giữa các quốc gia có thể được xác định phổ biến như sau:
– Cấp độ đầu tiên, được đặt tên là M1, đề cập đến tất cả các loại tiền vật chất đang lưu hành trong một nền kinh tế.
– Cấp độ tiếp theo, được gọi là M2, bổ sung số dư của các tài khoản tiền gửi ngắn hạn để tính tổng.
Khi một khách hàng gửi tiền vào tài khoản tiền gửi ngắn hạn, tổ chức ngân hàng có thể cho người khác vay một khoản trừ đi dự trữ bắt buộc. Quy mô của số nhân phụ thuộc vào tỷ lệ phần trăm tiền gửi mà các ngân hàng phải dự trữ. Mặc dù người gửi tiền ban đầu duy trì quyền sở hữu khoản tiền gửi ban đầu của họ, nhưng số tiền được tạo ra thông qua hoạt động cho vay được tạo ra dựa trên số tiền đó. Nếu người vay thứ hai sau đó gửi tiền nhận được từ tổ chức cho vay, điều này sẽ làm tăng giá trị của cung tiền mặc dù không có loại tiền vật chất bổ sung nào thực sự tồn tại để hỗ trợ số tiền mới.
5. Hệ số nhân và các loại tỷ lệ dự trữ pháp lý:
Hệ số nhân là gì?
Về mặt kinh tế, yếu tố kinh tế gây ra những thay đổi trong nhiều biến số kinh tế liên quan khác được gọi chung là Hệ số nhân. Thuật ngữ này thường được sử dụng để chỉ mối quan hệ giữa chi tiêu của chính phủ và tổng thu nhập quốc gia. Xét về tổng sản phẩm quốc nội, hiệu ứng số nhân gây ra những thay đổi trong tổng sản lượng lớn hơn thay đổi trong chi tiêu gây ra nó.
Các loại tỷ lệ dự trữ pháp lý
Tỷ lệ dự trữ tiền mặt (CRR): Đây là một loại tỷ lệ đề cập đến tỷ lệ phần trăm tối thiểu trong tổng số tiền gửi của ngân hàng thương mại mà họ phải giữ với ngân hàng trung ương hoặc RBI.
Tỷ lệ thanh khoản theo luật định (SLR): Nó đề cập đến tỷ lệ phần trăm tối thiểu của tổng nhu cầu ròng và các khoản nợ có thời hạn mà các ngân hàng thương mại phải duy trì. Về cơ bản, đó là khoản dự trữ tối thiểu trong tổng số tiền gửi mà các ngân hàng thương mại phải giữ bên mình.