Việc áp dụng các thủ tục đánh giá cho dưới 100% tổng dân số và tất cả các mục trong tổng thể nhằm đảm bảo rằng các mục được lựa chọn đại diện cho tổng số dân, cho phép kiểm toán viên đưa ra kết luận và bày tỏ ý kiến dựa trên mục tiêu đã định trước của họ. Vậy lấy mẫu kiểm toán là gì? Rủi ro của phương pháp kiểm toán chọn mẫu ra sao?
Mục lục bài viết
1. Lấy mẫu kiểm toán là gì?
Định nghĩa của lấy mẫu kiểm toán là: ‘Việc áp dụng các thủ tục đánh giá cho ít hơn 100% các khoản mục trong tổng thể có mức độ phù hợp của cuộc đánh giá sao cho tất cả các đơn vị lấy mẫu đều có cơ hội lựa chọn nhằm cung cấp cho đánh giá viên cơ sở hợp lý để đưa ra kết luận về toàn bộ tổng thể.’
Lấy mẫu kiểm toán là một công cụ điều tra trong đó ít hơn 100% tổng số mục trong tổng thể các mục được chọn để đánh giá. Đây là một kỹ thuật kiểm toán cung cấp bằng chứng hỗ trợ cho phép kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán mà không cần phải kiểm toán từng khoản mục và giao dịch.
Kiểm toán là quá trình mà các hồ sơ tài chính của một công ty được xác minh và kiểm tra. Nó là để đảm bảo rằng các giao dịch trên hồ sơ tài chính được trình bày một cách chính xác và công bằng. Do các báo cáo tài chính được lập trong nội bộ của các công ty và tổ chức, nên có nhiều rủi ro bị thao túng và gian lận xung quanh việc lập báo cáo.
Nói cách khác, chuẩn mực thừa nhận rằng kiểm toán viên thông thường sẽ không kiểm tra tất cả các thông tin có sẵn cho họ vì điều này sẽ không thực tế cũng như không kinh tế. Thay vào đó, đánh giá viên sẽ sử dụng lấy mẫu như một kỹ thuật kiểm toán để đưa ra kết luận của họ. Điều quan trọng ngay từ đầu là phải hiểu rằng một số thủ tục mà kiểm toán viên có thể áp dụng không liên quan đến việc lấy mẫu kiểm toán, ví dụ: thử nghiệm 100% các hạng mục trong tổng thể. Kiểm toán viên có thể cho là thích hợp 100% thử nghiệm khi có một số lượng nhỏ các khoản mục có giá trị cao tạo thành một tập hợp hoặc khi có rủi ro có sai sót trọng yếu đáng kể và các thủ tục kiểm toán khác sẽ không cung cấp đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp.
Tuy nhiên, thí sinh phải đánh giá cao rằng 100% bài kiểm tra rất khó xảy ra trong trường hợp kiểm tra đối chứng; việc lấy mẫu như vậy phổ biến hơn đối với các thử nghiệm chi tiết (tức là thử nghiệm nội dung). Việc sử dụng phương pháp chọn mẫu được áp dụng rộng rãi trong đánh giá vì nó tạo cơ hội cho đánh giá viên thu thập được lượng bằng chứng kiểm toán tối thiểu vừa đủ và phù hợp để đưa ra kết luận hợp lệ về tổng thể.
Việc lấy mẫu kiểm toán cũng được biết đến rộng rãi để giảm rủi ro ‘kiểm toán quá mức’ trong một số lĩnh vực nhất định và cho phép xem xét hiệu quả hơn nhiều giấy tờ làm việc ở giai đoạn soát xét của cuộc đánh giá. Khi đưa ra các mẫu của họ, đánh giá viên phải đảm bảo rằng mẫu được chọn là đại diện cho dân số. Nếu mẫu không đại diện cho dân số, đánh giá viên sẽ không thể đưa ra kết luận về toàn bộ dân số. Ví dụ: nếu kiểm toán viên chỉ kiểm tra 20% khoản phải thu khách hàng về sự tồn tại tại ngày báo cáo bằng cách xác nhận tiền mặt sau ngày thanh toán, thì con số này hầu như không đại diện cho dân số, trong khi 75% sẽ mang tính đại diện hơn nhiều.
2. Rủi ro của phương pháp kiểm toán chọn mẫu:
Kiểm toán đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo rằng các công ty đang trình bày các báo cáo tài chính của họ một cách công bằng và chính xác. Có ba loại kiểm toán:
– Đánh giá nội bộ được thực hiện bởi các nhân viên nội bộ của một tổ chức, nhưng chúng thường không được phân phối ra bên ngoài công ty.
– Đánh giá bên ngoài được thực hiện bởi các bên bên ngoài được coi là có nhiều ý kiến thiếu khách quan hơn vì đánh giá nội bộ có thể bị ảnh hưởng bởi xung đột lợi ích.
– Các cuộc kiểm toán của chính phủ được thực hiện bởi các đơn vị chính phủ để đảm bảo rằng các báo cáo tài chính đã được lập một cách chính xác. Tại Hoa Kỳ, Sở Thuế vụ (IRS) thực hiện các cuộc kiểm tra nhằm xác minh tính chính xác của các bản khai thuế của người đóng thuế. Đối tác của IRS tại Canada là Cơ quan Doanh thu Canada (CRA).
Báo cáo tài chính được lập theo các chuẩn mực kế toán và nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho những người ra quyết định có liên quan. Tuy nhiên, thông tin được cung cấp cần phải chính xác và trình bày công bằng. Việc kiểm toán là quan trọng để đảm bảo rằng các đơn vị không trình bày sai lệch báo cáo tài chính của mình để các bên liên quan không đưa ra quyết định dựa trên báo cáo tài chính sai sót. Điều quan trọng là thiết lập lòng tin và hiệu quả trong hệ thống tài chính.
Bất kể hình thức kiểm toán nào đang được thực hiện – lấy mẫu kiểm toán nội bộ, bên ngoài hay chính phủ – cần được sử dụng để kiểm toán viên có thể hoàn thành cuộc kiểm toán của mình mà không lãng phí nguồn lực trong việc kiểm tra từng hạng mục. Mục tiêu của việc lấy mẫu đánh giá như sau:
– Thu thập đủ bằng chứng để đưa ra ý kiến kiểm toán
– Giảm số lượng tài nguyên được sử dụng
– Cung cấp cơ sở để kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán kết luận
– Phát hiện bất kỳ sai sót hoặc gian lận nào có thể xảy ra
– Chứng minh rằng kiểm toán viên đã hoàn thành cuộc kiểm toán của mình một cách đầy đủ theo các chuẩn mực kiểm toán
– Được sử dụng như một công cụ để điều tra
Khi kiểm toán báo cáo tài chính, việc kiểm toán và kiểm tra từng khoản mục trong báo cáo tài chính là không khả thi. Nó sẽ rất tốn kém và sẽ mất nhiều nguồn lực và thời gian để làm như vậy.
Chọn mẫu kiểm toán cho phép kiểm toán viên đưa ra kết luận và bày tỏ ý kiến hợp lý dựa trên các mục tiêu đã xác định trước mà không cần phải kiểm tra tất cả các khoản mục trong báo cáo tài chính. Đánh giá viên sẽ chỉ xác minh các mục được chọn và thông qua việc lấy mẫu, có thể đưa ra ý kiến của họ về toàn bộ các mục.
3. Các hình thức lấy mẫu kiểm toán:
Có hai hình thức lấy mẫu:
– Lấy mẫu kiểm toán thống kê
Lấy mẫu kiểm toán thống kê liên quan đến cách tiếp cận lấy mẫu trong đó đánh giá viên sử dụng các phương pháp thống kê như lấy mẫu ngẫu nhiên để chọn các mục cần xác minh. Lấy mẫu ngẫu nhiên được sử dụng khi có nhiều mặt hàng hoặc giao dịch trong hồ sơ.
Hãy xem xét một công ty có hơn 100 giao dịch hàng tồn kho trên hồ sơ của mình. Sử dụng lấy mẫu thống kê được khuyến khích do số lượng giao dịch cao.
Ví dụ, với lấy mẫu thống kê, mười mục được chọn ngẫu nhiên từ tổng dân số. Mọi mục trong 100 đều có xác suất được chọn và kiểm tra độ chính xác như nhau. Một lần nữa, điều này có lợi cho kiểm toán viên vì họ vẫn có thể đưa ra ý kiến kiểm toán nhưng không phải kiểm tra tất cả 100 giao dịch.
– Lấy mẫu kiểm toán phi thống kê
Ngược lại với lấy mẫu kiểm toán thống kê, các mục lấy mẫu kiểm toán phi thống kê không được chọn ngẫu nhiên. Thay vào đó, chúng được chọn dựa trên đánh giá của kiểm toán viên và kết quả của thử nghiệm từ các lựa chọn không được sử dụng để đưa ra kết luận cho toàn bộ tập hợp.
Trong ví dụ trước đó, mười giao dịch hàng tồn kho có thể được sử dụng để suy ra ý kiến về tất cả 100 giao dịch. Trong lấy mẫu đánh giá phi thống kê, đánh giá viên có thể chọn các mục dựa trên các tiêu chí như:
Giá trị của các mặt hàng (ví dụ: các mặt hàng lớn hơn 100.000 đô la)
Các mục có thông tin cụ thể (ví dụ: các mục liên quan đến một công ty nhất định)
Rủi ro lấy mẫu là rủi ro mà kết luận của kiểm toán viên dựa trên mẫu có thể khác với kết luận nếu toàn bộ tập hợp là đối tượng của cùng một thủ tục kiểm toán.
ISA 530 thừa nhận rằng rủi ro lấy mẫu có thể dẫn đến hai loại kết luận sai lầm:
– Kiểm toán viên kết luận rằng các kiểm soát đang hoạt động hiệu quả, trong khi thực tế là không. Trong trường hợp có liên quan đến thử nghiệm cơ bản (chủ yếu được sử dụng để kiểm tra sai sót trọng yếu), kiểm toán viên có thể kết luận rằng thực tế là không tồn tại một sai sót trọng yếu. Những kết luận sai lầm này nhiều khả năng sẽ dẫn đến việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến không chính xác.
– Kiểm toán viên kết luận rằng các kiểm soát đang hoạt động không hiệu quả, trong khi thực tế là như vậy. Về mặt thử nghiệm cơ bản, kiểm toán viên có thể kết luận rằng có sai sót trọng yếu trong khi thực tế là không. Ngược lại với việc dẫn đến một ý kiến không chính xác, những sai sót trong kết luận này sẽ dẫn đến việc phải làm thêm, nếu không sẽ không cần thiết dẫn đến việc kiểm toán không hiệu quả.
– Rủi ro không lấy mẫu là rủi ro mà kiểm toán viên đưa ra kết luận sai, không liên quan đến rủi ro lấy mẫu. Ví dụ về tình huống như vậy sẽ là khi kiểm toán viên áp dụng các thủ tục kiểm toán không phù hợp hoặc không nhận ra sai lệch kiểm soát.