Giá trị sổ sách của một cổ phần đại diện cho giá trị tối thiểu của vốn chủ sở hữu của một công ty và đo lường giá trị sổ sách của một công ty trên cơ sở mỗi cổ phiếu. Vậy giá trị sổ sách của một cổ phần là gì? Công thức tính và hệ số giá trên giá trị sổ sách?
Mục lục bài viết
1. Giá trị sổ sách của một cổ phần là gì?
– Giá trị sổ sách của một cổ phần (BVPS) là gì?
Giá trị sổ sách của một cổ phần đại diện cho giá trị tối thiểu của vốn chủ sở hữu của một công ty và đo lường giá trị sổ sách của một công ty trên cơ sở mỗi cổ phiếu.
+ Cổ phiếu lưu hành là cổ phiếu của một công ty hiện do tất cả các cổ đông của công ty đó nắm giữ. Chúng bao gồm các khối cổ phần do các nhà đầu tư tổ chức nắm giữ và các cổ phần bị hạn chế do các cán bộ và người trong công ty sở hữu. Số lượng cổ phiếu đang lưu hành của một công ty không cố định và có thể biến động dữ dội theo thời gian.
+ Cổ phiếu lưu hành là cổ phiếu của một công ty hiện do tất cả các cổ đông của công ty đó nắm giữ. Chúng bao gồm các khối cổ phần do các nhà đầu tư tổ chức nắm giữ và các cổ phần bị hạn chế do các cán bộ và người trong công ty sở hữu. Số lượng cổ phiếu đang lưu hành của một công ty không cố định và có thể biến động dữ dội theo thời gian.
2. Các cách nói chính về Giá trị sổ sách của một cổ phần:
Giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu (BVPS) lấy tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu phổ thông của một công ty chia cho số lượng cổ phiếu đang lưu hành. Giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu chỉ ra một cách hiệu quả giá trị tài sản ròng của một công ty (tổng tài sản – tổng nợ phải trả) trên cơ sở mỗi cổ phiếu. Khi một cổ phiếu bị định giá thấp, nó sẽ có giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu cao hơn so với giá cổ phiếu hiện tại trên thị trường. Giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu được sử dụng chủ yếu bởi các nhà đầu tư chứng khoán để đánh giá giá cổ phiếu của một công ty.
– Tìm hiểu giá trị sách trên mỗi cổ phiếu (BVPS): số liệu giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu (BVPS) là một trong những thước đo hữu ích để đánh giá giá trị công ty, dựa trên giá trị sổ sách mà có thể được các nhà đầu tư sử dụng để đánh giá liệu giá cổ phiếu có bị định giá thấp hay không bằng cách so sánh nó với giá trị thị trường trên mỗi cổ phiếu của công ty. Nếu BVPS của một công ty cao hơn giá trị thị trường trên mỗi cổ phiếu giá cổ phiếu hiện tại thì cổ phiếu đó được coi là định giá thấp. Nếu BVPS của công ty tăng, cổ phiếu sẽ được coi là có giá trị hơn và giá cổ phiếu sẽ tăng. Tuy nhiên, vì tài sản sẽ được bán theo giá thị trường và giá trị ghi sổ sử dụng nguyên giá của tài sản, nên giá trị thị trường được coi là giá sàn tốt hơn giá trị sổ sách của một công ty.
Nếu giá cổ phiếu của một công ty giảm xuống dưới Giá trị sổ sách của một cổ phần của nó, nếu có một công ty khác có tầm nhìn và đánh giá cao công ty muốn bán cổ phiếu thì công ty này có thể kiếm lợi nhuận phi rủi ro bằng cách mua lại công ty và thanh lý nó để kiếm lời. Nếu giá trị sổ sách là âm, trong đó nợ phải trả của một công ty vượt quá tài sản của nó, điều này được gọi là mất khả năng thanh toán bảng cân đối kế toán.
3. Công thức tính và hệ số giá trên giá trị sổ sách:
Công thức cho Giá trị sổ sách của một cổ phần là:
Giá trị sổ sách của một cổ phần = (Tổng vốn chủ sở hữu – Vốn chủ sở hữu ưu đãi): Tổng số cổ phiếu đang lưu hành
Vốn chủ sở hữu của cổ đông là phần còn lại của chủ sở hữu trong công ty sau khi các khoản nợ đã được thanh toán. Nó bằng tổng tài sản của một công ty trừ đi tổng nợ phải trả, là giá trị tài sản ròng hoặc giá trị sổ sách của toàn bộ công ty.
+ Trách nhiệm pháp lý (nói chung) là một thứ gì đó nợ người khác. Trách nhiệm pháp lý cũng có thể có nghĩa là rủi ro hoặc nghĩa vụ pháp lý hoặc quy định. Trong kế toán, các công ty ghi sổ nợ phải trả đối lập với tài sản. Nợ ngắn hạn là nghĩa vụ tài chính ngắn hạn của công ty phải trả trong vòng một năm hoặc một chu kỳ hoạt động bình thường (ví dụ: các khoản phải trả). Nợ dài hạn (không dài hạn) là các nghĩa vụ được liệt kê trên bảng cân đối kế toán không đến hạn quá một năm.
– Ví dụ về giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu
Ví dụ, giả sử rằng số dư vốn cổ phần phổ thông của XYZ Manufacturing là 10 triệu đô la và 1 triệu cổ phiếu phổ thông đang lưu hành. Điều này có nghĩa là BVPS là (10 triệu đô la / 1 triệu cổ phiếu), hoặc 10 đô la cho mỗi cổ phiếu. Nếu XYZ có thể tạo ra lợi nhuận cao hơn và sử dụng lợi nhuận đó để mua thêm tài sản hoặc giảm nợ phải trả, thì vốn chủ sở hữu chung của công ty sẽ tăng lên.
Ví dụ, nếu công ty tạo ra 500.000 đô la thu nhập và sử dụng 200.000 đô la lợi nhuận để mua tài sản, vốn cổ phần thường tăng cùng với BVPS. Nếu XYZ sử dụng 300.000 đô la thu nhập của mình để giảm nợ phải trả, thì vốn chủ sở hữu chung cũng tăng lên.
– Giá trị thị trường trên mỗi cổ phiếu so với Giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu:
Trong khi BVPS được tính toán bằng cách sử dụng chi phí lịch sử, giá trị thị trường trên mỗi cổ phiếu là một số liệu hướng tới tương lai có tính đến khả năng thu nhập trong tương lai của công ty. Sự gia tăng khả năng sinh lời tiềm năng của một công ty hoặc tốc độ tăng trưởng dự kiến sẽ làm tăng giá trị thị trường trên mỗi cổ phiếu.
Ví dụ, một chiến dịch tiếp thị sẽ giảm BVPS bằng cách tăng chi phí. Tuy nhiên, nếu điều này xây dựng giá trị thương hiệu và công ty có thể tính giá cao hơn cho các sản phẩm của mình, giá cổ phiếu của công ty có thể tăng cao hơn nhiều so với BVPS.
4. Giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu (BVPS) biểu hiện những điều gì?
Như đã phân tích ở trên thì Giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu được hiểu là số tiền mà các cổ đông sẽ nhận được trong trường hợp công ty bị thanh lý, tất cả tài sản hữu hình được bán và tất cả các khoản nợ phải trả đã được thanh toán dựa trên giá trị đã được ghi trong sổ sách, dựa trên giá đã cố định trên sổ sách.
Thông thường thì giá trị sổ sách được xem là căn cứ để các nhà đầu tư xem xét và so sánh giá thị trường của cổ phiếu và giá trên sổ sách. Có thể hiểu Giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu của một công ty cao hơn giá trị thị trường trên mỗi cổ phiếu, tức là giá cổ phiếu hiện tại của nó, thì cổ phiếu đó được coi là bị định giá thấp.
Cách mà các công ty có thể tăng Giá trị sổ sách của một cổ phần:
+ Cách thứ nhất là công ty có thể sử dụng một phần thu nhập của mình chính công ty để mua các tài sản có thể làm tăng vốn chủ sở hữu chung cùng với Giá trị sổ sách của một cổ phần, làm tăng thêm giá trị sổ sách của cổ phần, kéo giá trị của cổ phiếu.
+ Cách thứ hai là công ty có thể sử dụng thu nhập của mình để giảm nợ phải trả, khi nợ giảm thì đồng thời cũng sẽ dẫn đến tăng vốn chủ sở hữu chung và Giá trị sổ sách của một cổ phần.
+ Cách thứ ba là công ty là mua lại cổ phiếu phổ thông từ các cổ đông và nhiều công ty sử dụng thu nhập để mua lại cổ phiếu để làm tăng giá trị sổ sách của cổ phiếu.
– Giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu khác với giá trị thị trường trên mỗi cổ phiếu như sau:
Giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu được tính toán bằng cách sử dụng chi phí lịch sử, giá trị thị trường trên mỗi cổ phiếu là một số liệu hướng tới tương lai có tính đến khả năng thu nhập trong tương lai của công ty. Sự gia tăng khả năng sinh lời tiềm năng của một công ty hoặc tốc độ tăng trưởng dự kiến sẽ làm tăng giá trị thị trường trên mỗi cổ phiếu. Giá thị trường trên mỗi cổ phiếu được quy định là giá hiện tại của một cổ phiếu trong cổ phiếu được giao dịch công khai gọi là giá thị trường. Bởi mang tính chất thị trường nên giá thị trường s ẽ dao động chỉ dựa trên lực lượng cung và cầu thị trường mà không cố định như giá sổ sách.