Biện chứng Triết học Mác-Lenin và các trường phái triết học khác luận giải về mối quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Vậy biện chứng khách quan, biện chứng chủ quan là gì? Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan có mối liên hệ như thế nào với nhau?
Mục lục bài viết
1. Biện chứng là gì?
1.1. Khái niệm biện chứng?
Từ biện chứng (“dialectic”) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ, và trở nên phổ biến qua những cuộc đối thoại kiểu Socrates của Plato. Biện chứng có nền tảng từ những cuộc đối thoại giữa hai hay nhiều người với những ý kiến, tư tưởng khác nhau và cùng mong muốn thuyết phục người khác.
Biện chứng hay còn gọi là phương pháp biện chứng, phép biện chứng là một phương pháp luận, đây là phương pháp tồn tại ở cả nền triết học phương Đông và phương Tây trong thời cổ đại.
Trên thực tế, biện chứng được hiểu là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mối liên hệ tương tác, chuyển hóa, vận động phát triển theo quy luật của các sự vật hay hiện tượng trong quá trình tự nhiên xã hội và tư duy.
Và biện chứng sẽ bao gồm hai loại là biện chứng chủ quan và biện chứng khách quan.
1.2. Các giai đoạn phát triển của phương pháp luận biện chứng:
Theo như tìm hiểu, phương pháp luận biện chứng trải qua 03 giai đoạn phát triển:
– Thứ nhất, giai đoạn phép biện chứng cổ đại: đây là phép biện chứng xuất hiện trong triết học thời cổ đại. Các nhà triết học ở phương Đông và phương Tây thời cổ đại đã xem thế giới khách quan thay đổi trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Nhưng những gì các nhà biện chứng khoa học đó khám phá ra thì nó chỉ là trực kiến chứ chưa có sự nghiên cứu mang tính chất thực nghiệm khoa học ở đây.
– Thứ hai, giai đoạn phép biện chứng duy tâm: được hiểu là sự bắt nguồn từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là biểu hiện của các ý niệm nên biện chứng được các nhà triết học cổ điển Đức nhận định đây là biện chứng duy tâm. Thời kỳ đỉnh cao của hình thức cơ bản này được thể hiện trong triết học cổ điển Đức, người khởi xướng cho quan điểm này là nhà triết học Kant (1724-1804) và người kế thừa, hoàn thiện nó là nhà triết học Hegel. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phép biện chứng.
– Thứ ba, giai đoạn của phép biện chứng duy vật: do hai nhà triết học xây dựng, đó là Karl Heinrich Marx và Friedrich Engels. Hai nhà triết học đã kế thừa sự phát triển cho rằng là quan điểm hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng và phát triển hoàn thiện phép biện chứng duy vật với tính chất là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. Hai ông quan niệm rằng phép biện chứng là quy luật vận động của thế giới khách quan chứ không phải chỉ là sự vận động của tư tưởng.
2. Biện chứng chủ quan là gì?
2.1. Khái niệm về biện chứng chủ quan:
Biện chứng chủ quan là chỉ biện chứng của ý thức. Khái niệm biện chứng chủ quan chính là sự phản ánh mối liên hệ, sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào đầu óc, tư duy của con người.
2.2. Ví dụ về biện chứng chủ quan:
Khi bạn tham gia điều khiển phương tiện giao thông, bạn nghĩ rằng mình đang chạy rất bình thường không có điều gì xảy ra nhưng thực tế có thể bạn đang chạy quá tốc độ so với pháp luật quy định.
3. Biện chứng khách quan là gì?
3.1. Khái niệm biện chứng khách quan:
Biện chứng khách quan được hiểu là sự biện chứng của các sự vật, hiện tượng bên ngoài. Khác với biện chứng chủ quan là sự biện chứng của ý thức, thì biện chứng khách quan là sự phản ánh những mối liên hệ, sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên mang tính khách quan nhất.
3.2. Ví dụ về biện chứng khách quan:
Khi cần giải quyết về một vấn đề nào đó, hai người có thể đưa ra hai phương án, hai định hướng khác nhau để giải quyết, và hai cũng có những lý lẽ riêng để bảo đảm quan điểm của mình. Ý kiến chủ quan bao giờ cũng mang tính chất phiến diện và nếu như chỉ nghe một phía sẽ làm ảnh hưởng đến sự nhìn nhận của mình. Do vậy, từ vấn đề đó phải cần có một người khác đưa ra nhận xét và đánh giá sẽ mang tính chất khách quan.
4. Mối liên hệ giữa biện chứng khách quan và chủ quan:
Thứ nhất, khách quan và chủ quan là hai mặt, hai yếu tố không thể tách rời trong mọi hoạt động của mỗi chủ thể. Và trong mối liên kết giữa khách quan và chủ quan, quan điểm cho rằng khách quan bao giờ cũng là cơ sở, tiền đề cho yếu tố chủ quan, giữ vai trò quan trọng, mang tính chất quyết định yếu tố chủ quan. Lênin vạch ra sự tương tác biện chứng phức tạp giữa cái chủ quan và cái khách quan. Vai trò hàng đầu trong sự phát triển lịch sử – xã hội thuộc về các điều kiện khách quan vốn quyết định tính chất và chiều hướng chủ yếu của các quá trình xã hội. Bởi lẽ, các điều kiện, khả năng và quy luật khách quan, không những luôn tồn tại độc lập không lệ thuộc vào chủ thể, luôn buộc chủ thể phải tính đến trước tiên trong mọi hoạt động, mà còn là cội nguồn làm nảy sinh mọi tri thức, tình cảm, ý chí và nguyện vọng của chủ thể.
Thứ hai, khách quan quy định nội dung và sự vận động biến đổi của chủ quan. Không phải thế giới khách quan khuôn theo ý chí, nguyện vọng chủ quan của con người, mà trái lại, ý chí, nguyện vọng của con người chỉ đúng khi nó phản ánh được sự vận động biến đổi của những điều kiện, khả năng và quy luật vốn có của thế giới khách quan.
Thứ ba, mọi hoạt động của con người phải dựa vào những điều kiện khách quan nhất định song con người sẽ không phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện khách quan đó mà có thể tự dựa vào năng lực chủ quan của chính bản thân mình để phát hiện ra các điều kiện khách quan. Và khi đó, nếu có những điều kiện khách quan cần thiết thì nhân tố chủ quan giữ vai trò quyết định trong các cải biến xã hội. Lênin viết: “Trong lúc các nước tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư bản đang tan rã, trong lúc giai cấp đó tuyệt vọng và gặp cơn khủng hoảng, thì chỉ có nhân tố chính trị đó mới là nhân tố quyết định… Trong trường hợp này, cái quyết định chính là sự tự giác và tính kiên quyết của giai cấp công nhân. Nếu giai cấp công nhân sẵn sàng hy sinh, nếu nó tỏ ra có khả năng dốc toàn lực ra thì nhiệm vụ khắc được giải quyết… Tinh thần quyết tâm của giai cấp công nhân, ý chí sắt đá của nó trong việc thực hiện khẩu hiệu “Chúng ta thà chết chứ không chịu khuất phục!” không phải chỉ là nhân tố lịch sử mà còn là nhân tố quyết định, nhân tố chiến thắng nữa”
Thứ tư, biện chứng của cái khách quan và cái chủ quan trong thời kỳ xây dựng CNXH quy định các biện pháp giải quyết các nhiệm vụ kiến thiết, trong đó phải tính đến cả sự chín muồi của các điều kiện kinh tế – vật chất, trình độ tự giác và tính tổ chức của quần chúng lao động, tức là nhân tố chủ quan. Ở đây cái khách quan chủ yếu và về cơ bản vẫn xác định xu hướng và tính chất của sự phát triển lịch sử, tạo ra những khả năng và tiền đề hiện thực để giải quyết các nhiệm vụ xã hội đã được lịch sử xác định, quy định nội dung và giới hạn của hành động hiệu quả của nhân tố chủ quan. Ý chí, lòng nhiệt tình, quyết tâm của con người, nếu chúng bị tách khỏi các điều kiện khách quan, không tính đến các yêu cầu của các quy luật khách quan đều dẫn đến chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
5. Ý nghĩa của mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan:
Thứ nhất, mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan, nhận thấy yếu tố khách quan là nhân tố giữ vai trò là tiền đề, là cơ sở nên khi thực hiện hay xử lý vấn đề nào đó trên thực tiễn thì tư duy hay hành động phải có sự tôn trọng khách quan.
Thứ hai, trong mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan, nhân tố chủ quan sẽ giúp tăng sự sáng tạo, đấu tranh, tránh trường hợp thụ động, ỷ lại trước những khó khăn, trắc trở của cuộc sống.
Thứ ba, từ mối liên hệ này sẽ giúp con người có nhận thức hay hành động đúng đắn hơn trong lý luận và thực tế.