Tục Thờ Sơn Trang là một trong những tín ngưỡng
đặc biệt của dân tộc ta, suốt hơn 2000 năm, nó mang đậm nét dấn ấn về tinh thần
đoàn kết dân tộc giữa người Kinh và các dân tộc thiểu số. Bài viết dưới đây sẽ cung
cấp thông tin về: Nguồn gốc tục thờ Sơn Trang?
Chúa Sơn Trang là ai? Lịch sử Chúa Sơn Trang hay lịch sử các Chúa Mường? Bát Bộ Sơn Trang là ai? Mười hai cô Sơn Trang là ai? Lễ vật cúng ban Sơn Trang? Bài văn khấn ban Sơn Trang?
Mục lục bài viết
- 1 1. Nguồn gốc tục thờ Sơn Trang:
- 2 2. Tại sao Cung Sơn Trang lại được phối thờ trong các đền phủ theo tín ngưỡng Tứ Phủ?
- 3 3. Chúa Sơn Trang là ai?
- 4 3. Lịch sử Chúa Sơn Trang hay lịch sử các Chúa Mường:
- 5 4. Bát Bộ Sơn Trang là ai?
- 6 5. Mười hai cô Sơn Trang là ai?
- 7 6. Lễ vật cúng ban Sơn Trang:
- 8 7. Bài văn khấn ban Sơn Trang:
1. Nguồn gốc tục thờ Sơn Trang:
Tục thờ Sơn Trang là một nghi thức thờ cúng của người Việt ra đời từ thời Âu Lạc cách đây khoảng 2000 năm. Tuy nhiên, tục thờ Tứ Phủ có lẽ chỉ thịnh hành và trở nên phổ biến hơn khi có sự xuất hiện Thánh Mẫu Liễu Hạnh cách đây hơn 600 năm. Do vậy, tục thờ Sơn Trang ban đầu là một tín ngưỡng thờ Mẹ rừng, từ trước khi Mẫu Liễu Hạnh ra đời.
2. Tại sao Cung Sơn Trang lại được phối thờ trong các đền phủ theo tín ngưỡng Tứ Phủ?
Phối thờ cung Sơn Trang trong điện thờ Tứ Phủ
Việc phối thờ Sơn Trang trong cùng đền, phủ của tục thờ Tứ Phủ mang dấu ấn đậm nét tinh thần đoàn kết dân tộc giữa dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số từ thời xa xưa, thể hiện rằng đất nước Việt Nam là của chung mọi dân tộc Việt Nam và các dân tộc Việt đều thờ chung các vị Thánh.
Hầu hết, trong các đền và phủ đều có cung thờ Sơn Trang. Cung Sơn Trang (hay còn gọi Động Sơn Trang) thường được bài trí là một động đá có Chúa Sơn Trang cùng các Cô Sơn Trang ngự.
Chúa Sơn Trang là hiện thân của Mẫu Thượng Ngàn
Khi ngài thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện, triều đình nhà Lê đã phong Chúa Sơn Trang làm “Lê Mại Đại Vương”. Kể từ đó, Chúa Sơn Trang trở thành Mẫu Thượng Ngàn đứng thứ hai trong Tam Tòa Thánh Mẫu. Từ đây, tín ngưỡng thờ Tứ Phủ được coi là sự kết hợp hài hòa của tục thờ Mẫu Liễu Hạnh và tục thờ Sơn Trang.
3. Chúa Sơn Trang là ai?
Ngự tại Cung Sơn Trang (hay Tòa Sơn Trang) là Tam Tòa Sơn Trang, bao gồm:
+ Sơn Trang Đệ Nhất: Thanh Sơn Đại Vương Bạch Anh Quản Trưởng Sơn Lâm Công chúa Lê Mại Đại Vương.
+ Sơn trang Đệ Nhị: Diệu Tín Thiền Sư La Bình Công chúa.
+ Sơn Trang Đệ Tam: Sơn Trang đệ tam Diệu Nghĩa thiền sư Quế Hoa công chúa.
Nguồn khác thì cho rằng các chúa Sơn Trang chính là các Chúa Mường, Chúa Mường được lập đền thờ từ rất lâu đời : Từ thời vua Hùng đã có hình ảnh Chúa Mường; nhân dân Việt Nam ta tôn xưng Chúa Mường là chúa Sơn Trang. Trong tài liệu xưa cũng có câu hiệu viết Chúa Mường Sắc Tướng Đại Vương Bạch Anh Quản Trưởng Sơn Lâm Công Chúa; 3 vị tối linh quyền hành 1 cõi.
3. Lịch sử Chúa Sơn Trang hay lịch sử các Chúa Mường:
Lịch sử của tam Vị chúa Mường như sau:
3.1. Chúa đệ Nhất:
Thành Sơn Đại Vương Bạch Anh Quan Trưởng Sơn Lâm Công Chúa: Chúa Bà Thanh Sơn được thờ ở vùng đất Tam Đảo một trong những địa linh của đất nước. Bà Chúa xuất hiện ở thời Vua Hùng … Truyện kể rằng Kinh Đô Bạch Hạc bị giặc bao vây vào thế khốn cùng bỗng đâu xuất hiện 1 người con gái từ trên núi Tam Đảo cùng 3 nghìn quân Mường kéo xuống giải vây cho Kinh Đô Giặc tan người con gái ấy cùng quân lui về núi Tam Đảo.
Sau này, Triều Đình và nhân dân nhớ ơn lập miếu thờ ở chân núi Tam Đảo, đền thờ bà Chúa đã ngự trị ở vùng đất Tam Đảo trải qua các đời kể cả thời bắc thuộc. Đền là một trong những Long mạch thần khí của đất nước, đến đời vua Trần cho sửa sang lại đền phong Sắc Đại Vương, hiệu viết Chúa Mường Bạch Anh Quản Trưởng Sơn Lâm Công Chúa; đời hậu Lê phong Lê Mại Đại Vương.
3.2. Chúa đệ nhị:
Biệt hiệu Bạch Hạc Xuân Nương công chúa: Bà Xuân Nương là một trong những vị nữ tướng của Hai Bà Trưng là người Mường khởi nghĩa vùng Bạch Hạc.
3.3. Chúa đệ tam:
Chúa đệ tam có tên huý là Đinh Thị Vân, chính là Thác Bờ Công Chúa hay Miếng công chúa. Ngài có công nuôi dưỡng vua Lê Thái Tổ và nghĩa quân và thác hoá ở thác Bờ ngày nay. Vua phong Chế Thắng Hoà Diệu Đại Vương làm chúa ở những vùng đất như: Hoà Bình; Sơn La; Lai Châu; Điện Biên Anh Linh lừng lẫy khắp chốn sơn trang. Bà Chúa là chúa Bản Cảnh đất Hoà Bình nói riêng và là chúa động Mường nói chung.
Như vậy, các nguồn cho rằng tên của Chúa Mường Đệ Nhị và Chúa Mường Đệ Tam có sự khác nhau, tuy nhiên, đó cũng là chuyện thường tình vì hiện nay các thánh tích chỉ chủ yếu là tương truyền.
Chầu Bà Đệ Nhị là đại diện của Mẫu Thượng Ngàn có vai trò cai quản tam thập lục động; thập nhị tiên nàng; bát bộ sơn trang. Trong tòa Sơn trang chia ra làm 12 chốn Mán; 12 chốn Mường; 12 chốn man di Thổ tộc cho nên mới gọi là tam thập lục động sơn lâm sơn trang; 82 cửa rừng; 72 cửa biển; bát bộ sơn trang (8 tướng trai); và thập nhị bộ tiên nàng (12 tướng gái).
4. Bát Bộ Sơn Trang là ai?
Theo tương truyền Mẫu Thượng Ngàn lấy người đàn ông họ Đỗ ở Đồng Đăng, hạ sinh được ông Đỗ Đống. Ông Đỗ Đống lấy bà Nguyễn Thị Tươi, sau này sinh ra tám vị tướng phò giúp An Dương Vương. Sau này, các vị cũng hiển linh phù giúp Hai Bà Trưng và các đời Lý, Trần, Lê nên nhân dân ta gọi là 8 tướng sơn trang, cai quản Các Lũng, Các Nương Núi Rừng.
Bát bộ Sơn Trang bao gồm: Đỗ Trinh, Đỗ Triệu, Đỗ Hiệu, Đỗ Trung, Đỗ Bích, Đỗ Trương, Đỗ Cường, Đỗ Dũng.
5. Mười hai cô Sơn Trang là ai?
Thập nhị cô Sơn Trang là mười hai thánh cô sơn trang đi theo hầu Mẫu Thượng Ngàn.
Mười hai Thánh Cô này là:
– Cô Cả Núi Dùm;
– Cô Đôi Bắc Lệ;
– Cô Bơ Thượng Ngàn;
– Cô Tư Ỷ La;
– Cô Năm Đồng Tiền;
– Cô Sáu Đồi Ngang;
– Cô Tám Thượng Ngàn;
– Cô Chín thượng ngàn;
– Cô Mười Suối Ngang;
– Cô Mười Một Đồng Nhân;
– Cô Mười Hai Thượng Ngàn.
Theo tương truyền, thì 12 cô sơn trang không phải là các cô trong Tứ Phủ Thánh Cô. Như vậy, có thể nói Chúa Sơn Trang thờ trong Động Sơn Trang chính là hiện thân của Mẫu Thượng Ngàn trong Tam Tòa Thánh Mẫu.
6. Lễ vật cúng ban Sơn Trang:
Có thể thấy, việc thờ cũng đã trở thành một phong tục của những người dân nơi đây, dưới đây, sẽ hướng dẫn các bạn chuẩn bị lễ vật đến cúng bái ở các ban Sơn Trang:
Khi đến dâng hương ở các đền chùa, chúng ta nên sắm các mân lễ sơn trang chay như: hương, hoa tươi, quả chín, oản, xôi, chè… Lưu ý: Không đặt lễ mặn ở khu vực Phật điện tức là chính điện, tức là nơi thờ tự chính của ngôi chùa.
Trên hương án của chính điện chỉ được phép dâng đặt lễ chay, tịnh. Việc sắp sửa các lễ mặn: như cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt gà, giò, chả… chỉ có thể được chấp nhận nếu như trong khu vực chùa có thờ tự các vị Đức Ông, Thánh, Mẫu và chỉ dâng đặt tại ban thờ hay điện thờ.
Cỗ mặn mâm sơn trang gồm những đồ đặc sản Việt Nam, có thể như: cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng được xếp vào loại lễ này.
Theo thông lệ, khi sắm lễ mặn cúng sơn trang, người ta thường sắm theo con số 15:
+ 15 con ốc, cua;
+ 15 quả ớt, quả chanh hoặc có thể chỉ cần 1 quả nhưng được khía ra làm 15 phần;
Theo tương truyền, con số 15 này tương ứng với 15 vị được thờ tại ban sơn trang (1 vị chúa Sơn Trang, 2 vị hầu cận, 12 cô Sơn Trang tương ứng)
7. Bài văn khấn ban Sơn Trang:
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
Con kính lạy Đức chúa Thương Ngàn đỉnh thương cao sơn triều mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương ngọc điện hạ.
Con kính lạy Đức Thượng Ngàn chúa tể Mị Nương Quế Hoa công chúa tối tú tối linh, cai quản ba mươi sáu cửa rừng mười hai cửa bể.
Con kính lạy chư Tiên, chư Thánh chư Thần, Bát bộ Sơn trang, thập nhị Tiên Nàng, Thánh cô Thánh cậu, Ngũ hổ Bạch xà Đại tướng.
Hương tử con là…………………….
Ngụ tại………………………..
Nhân tiết…………… Chúng con thân đến phủ chúa trên ngàn, đốt nén tâm hương kính dâng lễ vật, một dạ chí thành, chắp tay khấn nguyện. Cúi xin lượng cả bao dung, thể đức hiếu sinh, phù hộ độ trì cho chúng con cùng cả gia quyến chín tháng đông, ba tháng hè được sức khỏe dồi dào, phúc thọ khang ninh, lộc tài vượng tiến, công việc hanh thông, vạn sự tốt lành.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin chứng giám, phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Bản văn Bát bộ Sơn Trang Ngọc Hoàng có lệnh truyền nay, Quản cai ngày dày, sơn trí sơn trang. Quê nhà vốn ở trên Mường Ở châu An Bá, ở làng Thọ Gia. Vốn xưa Văn Luyện là cha, Kết nghĩa giao hòa Mẫu Đặng Thị Tươi. Bèn sinh ra được tám người, Thấy đức tài lạ, tốt tươi kì hình. Tướng cả hiệu là Đỗ Trinh, Tướng hai Đỗ Bích đặc danh anh tài. Tướng ba Đỗ Trung kì tài, Tướng tư Đỗ Triệu nào ai dám nhường. Tướng năm hiệu là Đỗ Trương Tướng sáu Đỗ Cường báo ứng thần thông. Tướng bảy hiệu là Đỗ Công Tướng tám Đỗ Dũng uy hùng ai đang. Đã mời tám tướng sơn trang,