Xung đột xã hội là những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong nhiều vấn đề của xã hội như kinh tế, văn hóa, chính trị, tư tưởng, ... Để hiểu rõ hơn về xung đột xã hội hãy cũng bài viết tìm hiểu về khái niệm, phân loại và nguyên nhân của xung đột xã hội?
Mục lục bài viết
1. Khái niệm về xung đột xã hội là gì?
Quan điểm tiếp cận khái quát nhất về khái niệm xung đột xã hội là định nghĩa nó thông qua mâu thuẫn với tư cách một khái niệm chung và trước hết là thông qua mâu thuẫn xã hội. Sự phát triển của bất kỳ một xã hội nào cũng là một quá trình phức tạp vốn dựa trên nền tảng của những mâu thuẫn vốn phát sinh, phát triển và đã được giải quyết.
Mâu thuẫn và xung đột một mặt không được coi là những khái niệm đồng nghĩa, mặt khác cũng không được coi là những khái niệm trái ngược nhau. Sự mâu thuẫn, đối lập, sự khác biệt là những điều kiện cần nhưng chưa phải là những điều kiện đủ của xung đột. Sự khác biệt, sự mâu thuẫn, sự đối | lập chuyển hóa thành xung đột xã hội khi những lực lượng đại diện cho chúng bắt đầu tác động lẫn nhau. Như vậy, xung đột xã hội – đó là sự biểu hiện của những mâu thuẫn xã hội khách quan hoặc chủ quan phản ánh sự đối lập giữa các bên đối lập của chúng.
Trong xã hội, những lực lượng đó là những chủ thể của xã hội, những con người cụ thể như các cá nhân, các nhóm, các tầng lớp xã hội, các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội và các các quốc gia. Chính vì vậy, khi nói đến xung đột xã hội, trước hết chúng ta phải nói đến quá trình mà trong đó hai (hoặc nhiều hơn) cá nhân hoặc nhóm xã hội tích cực tìm kiếm khả năng cản trở nhau trong việc đạt được mục đích nào đó, ngăn chặn đối phương thỏa mãn nhu cầu hoặc buộc đối phương phải thay đổi quan điểm và khuynh hướng xã hội nhất định. Nói khái quát lại, các bên xung đột xã hội phải là con người. Như vậy, trong xung đột xã hội luôn luôn phải có ít nhất là hai bên đối lập nhau.
Xung đột xã hội thường được hiểu là dạng mâu thuẫn xã hội mà trong đó các bên mong muốn xâm chiếm lãnh thổ hoặc tài nguyên; đe dọa các cá nhân hoặc nhóm người đối lập; đe dọa xâm phạm quyền sở hữu hoặc truyền thống văn hóa của họ, vì vậy hình thức xung đột giữa họ là tấn công hoặc phòng thủ. Xung đột xã hội còn bao hàm trong nó tính chủ động của cá nhân, nhóm cá nhân trong việc phong tỏa hoạt động hoặc gây thiệt hại cho những người nhóm khác. Những thuật ngữ như: các cuộc tranh chấp, sự cạnh tranh, cưỡng bức trực tiếp thường được sử dụng để làm sáng tỏ hệ vấn đề về xung đột xã hội.
Ở Việt Nam, khái niệm “xã hội” được hiểu theo rất nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa đơn giản nhất đó là một tập thể hay một nhóm người được phân biệt với các nhóm người khác bằng các lợi ích, mối quan hệ đặc trưng, chia sẻ cùng một thể chế và có cùng văn hóa. Chủ nghĩa Mác – Lênin nhìn nhận xã hội không phải là tập hợp giản đơn các cá nhân, mà là biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau. Theo nghĩa rộng, “xã hội” là toàn bộ các hình thức hoạt động chung của con người đã hình thành trong lịch sử. Khái niệm xã hội thường được dùng để chỉ một tập đoàn người được hiểu như một hiện thực của các thành viên của nó, hoặc là chỉ một môi trường của con người mà cá nhân được hòa nhập vào, môi trường đó được xem như là toàn bộ các lực lượng có tổ chức và có hệ thống tôn ti trật tự tác động lên cá nhân.
Khái niệm “xung đột” được sử dụng rộng rãi với nhiều nghĩa. Trong sách báo, người ta thường nói đến xung đột ý thức hệ, xung đột kinh tế, xung đột văn hóa, xung đột tôn giáo, xung đột giao thông, xung đột môi trường, xung đột chính trị, xung đột (không tương thích nhau) của các hệ điều hành, các phần mềm, xung đột trong tự nhiên, xung đột trong xã hội, xung đột giữa các nhóm xã hội, xung đột giữa các tổ chức xã hội, xung đột giữa các hệ thống tổ chức xã hội, chức năng xã hội, xung đột về lợi ích, xung đột về địa vị xã hội, xung đột về tâm lý xã hội.
Theo “Từ điển sơ lược xã hội học”, xung đột xã hội là giai đoạn phát triển cao nhất của mâu thuẫn trong hệ thống các quan hệ giữa con người, các tập đoàn xã hội, các thiết chế xã hội, xã hội nói chung, được đặc trưng bằng sự đẩy mạnh các khuynh hướng và lợi ích đối lập nhau giữa các cộng đồng xã hội và các cá nhân với nhau. Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, xung đột là sự va chạm, đánh nhau, tranh giành giữa những nhóm người, tập đoàn người hay giữa các quốc gia, dân tộc vì những mâu thuẫn đối địch về tư tưởng, ý thức hệ, về quyền lợi vật chất, về tôn giáo, về chủng tộc hay lãnh thổ. Xung đột xã hội là hình thức đấu tranh giữa các lực lượng xã hội đối lập nhau (những tập hợp cộng đồng người hình thành một cách tự phát như dòng họ, tộc người, dân tộc, địa phương, quốc gia, giai cấp, đảng phái, hội đoàn, vv.). Xung đột xã hội gay gắt hơn tranh chấp, ganh đua, cạnh tranh hòa bình, có thể kịch liệt đến mức vượt mọi quy tắc, pháp luật như bạo loạn, chiến tranh, v.v..
2. Phân loại xung đột xã hội:
– Xung đột trong lĩnh vực kinh tế; – Xung đột trong lĩnh vực chính trị – tư tưởng; – Xung đột trong lĩnh vực xã hội (theo nghĩa hẹp); – Xung đột trong lĩnh vực tâm lý – xã hội; – Xung đột trong lĩnh vực văn hóa; – Xung đột trong lĩnh vực đạo đức, lối sống; – Xung đột trong lĩnh vực khác của đời sống, xã hội.
Nghiên cứu thực tiễn cho thấy trong các lĩnh vực xung đột nói trên thì xung đột trong lĩnh vực xã hội (theo nghĩa hẹp) là lĩnh vực xung đột xảy ra phổ biến nhất ở nước ta trong thời gian qua. Trong lĩnh vực này, các xung đột xã hội cụ thể thường xảy ra là: xung đột xã hội liên quan đến đất đai, xung đột xã hội liên quan đến lao động, xung đột xã hội liên quan đến môi trường, xung đột xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc. Một số cuộc xung đột xã hội đã chuyển thành các cuộc xung đột chính trị – tư tưởng và bạo loạn chính trị. Nhiều cuộc xung đột xã hội mang tính chất đan xen, lồng ghép vào nhau và có khả năng chuyển hóa thành những cuộc xung đột xã hội mang tính tổng | hợp có quy mô lan truyền rộng lớn.
Trong lĩnh vực đời sống, không lĩnh vực nào nóng bỏng, xung đột như lĩnh vực đất đai. Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo mà Bộ nhận được hàng năm vẫn còn nhiều, chủ yếu trong lĩnh vực đất đai (chiếm 98%). Từ năm 2015 đến năm 2018 trong số 21.274 đơn thư mà Bộ nhận được thì có 8.330 đơn thư đủ điều kiện xử lý. Trong đó có 216 vụ việc thuộc thẩm quyền của Bộ, 1.502 vụ việc được địa phương giải quyết hết thẩm quyền những công dân vẫn tiếp tục khiếu nại, 6.612 vụ việc địa phương chưa giải quyết hết thẩm quyền, công dân tiếp tục khiếu nại vượt cấp đến các cơ quan trung ương.
Tình hình khiếu nại, tố cáo về đất đai luôn là vấn đề được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm bởi vì tồn tại sâu xa của xung đột đất đai là những đối lập về lợi ích giữa Nhà nước và nhân dân, giữa người dân và doanh nghiệp; xung đột đất đai có xu hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ phức tạp, đặc biệt đã xuất hiện khá nhiều đoàn khiếu kiện đông người vượt cấp thẳng lên Trung ương. Khiếu kiện đông người đều liên quan đến đòi quyền lợi đất hoặc đòi lại đất hoặc phản ánh cán bộ sai phạm trong quản lý đất đai, thu chi về tài chính đất đai vô nguyên tắc....
Mỗi quốc gia độc lập, có quyền tự quyết trên toàn thế giới đều có một thể chế chính trị, mang bản sắc tư tưởng của đất nước đó và Việt Nam cũng vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin, không thể đưa một Đảng cách mạng đến thành công. Tuy nhiên hiện này do một số nguyên nhân cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, mạng internet nên nhiều quan điểm về chính trị – tư tưởng dẫn được phổ biến. Các tổ chức, cá nhân với quyền tiếp cận thông tin của mình đã tiếp xúc được với các luồng quan điểm này mà nảy sinh ra các yêu cầu về việc thay đổi tư tưởng chính trị dẫn tới xung đột trong lĩnh vực chính trị – tư tưởng ở nước ta.
Cùng với sự bùng nổ thông tin thì kinh tế – xã hội ngày càng phát triển dẫn đến tác động tiêu cực các quan hệ lao động. Mâu thuẫn lợi ích giữa người sử dụng lao động (chủ doanh nghiệp) với người lao động (công nhân) đang tồn tại và có lúc biểu hiện gay gắt do quyền lợi của người lao động không được đảm bảo hoặc tước đoạt nhằm gia tăng lợi nhuận cho bên sử dụng lao động.
3. Nguyên nhân của xung đột xã hội:
3.1. Nguyên nhân khách quan:
– Do sự mâu thuẫn xã hội.
Sự hình thành xung đột xã hội gắn liền một cách có giới hạn với sự xuất hiện và phát triển các mâu thuẫn xã hội. Sự bùng nổ và phát triển xung đột xã hội phản ánh giai đoạn đấu tranh cao nhất trên thực tế các mặt đối lập. Việc giải quyết xung đột này dẫn đến sự phá vỡ thống nhất giữa các mặt đối lập đó cùng với sự xuất hiện đồng thời của một chất mới.
Các mâu thuẫn khách quan của xã hội gắn liền với vấn đề bất bình đẳng của con người về các khả năng trong lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Yêu sách là nguồn xung đột mạnh mẽ. Đằng sau bất kỳ cuộc xung đột xã hội nào cũng như đằng sau việc giải quyết các xung đột xã hội đó đều vì các giá trị. Cuối cùng, những mâu thuẫn khách quan cũng có ý nghĩa không kém phần quan trọng. Các cuộc xung đột xảy ra không chỉ tùy thuộc vào việc con người muốn có chúng hoặc họ không được đảm bảo những nhu cầu thiết yếu về mặt vật chất, mà trước hết còn tùy thuộc vào hoàn cảnh của họ không tương ứng với những khát vọng về mặt tinh thần.
– Do mâu thuẫn giữa nhu cầu và lợi ích
Đã từ lâu, người ta thường phân tích sự đối lập giữa các lợi ích để lý giải bản chất của các cuộc xung đột xã hội. Ở phạm vi toàn cầu, sự đối lập giữa các lợi ích được thể hiện qua các cuộc đấu tranh của các quốc gia nhằm thay đổi tiêu chí cũng như những cơ sở của việc phân bổ các nguồn lực và sở hữu các vùng lãnh thổ. Thường thì người ta không liên tưởng một cách trực tiếp lợi ích với các của cải vật chất vì lợi ích có thể xuất phát từ những mong muốn, khát vọng về nghề nghiệp, văn hóa, tôn giáo. Việc phân tích một cách khách quan và chi tiết những mâu thuẫn và sự đụng độ về lợi ích (đặc biệt là lợi ích nhóm, lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc) có thể làm sáng tỏ một cách đáng kể bức tranh xung đột của một đất nước, của một vùng, miền hoặc của cả một nhóm xã hội nhỏ.
Quan điểm về sự cách biệt, xét về thực chất, nêu lên được cơ chế chung của sự tác động qua lại và của việc thực hiện các nhu cầu và lợi ích trong xã hội. Sự mâu thuẫn giữa các lợi ích cá nhân, nhóm, xã hội với những khả năng khách quan trong đời sống xã hội, sự tác động qua lại giữa chúng với những chủ thể khác của xã hội trong những điều kiện cụ thể – về nguyên tắc, đó là mâu thuẫn về lợi ích của một số người với lợi ích của những người khác vốn cản trở họ thực hiện những lợi ích đó.
– Do sự khác biệt các giá trị.
Để lý giải một cách đúng đắn các nguyên nhân của các cuộc xung đột | lớn trong xã hội, có thể sử dụng đến quan niệm về cái gọi là “sự khác biệt”.
Quan niệm này được sử dụng để chỉ sự không phù hợp một cách rõ ràng giữa sự mong đợi và khả năng đáp ứng sự mong đợi (sự khác biệt hoặc có thể gia tăng, hoặc có thể rút ngắn hoặc có thể không thay đổi). Sự gia tăng khác biệt tùy thuộc mối tương quan mà một bên là những điều mong đợi và một bên khác là những khả năng đáp ứng những điều mong đợi đó. Sự gia tăng khác biệt diễn ra khi: thứ nhất, giảm những khả năng thực hiện những yêu cầu (đòi hỏi) đã được hình thành, chúng ta dễ dàng nhận thấy điều này khi có cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra. Trong những điều kiện của cuộc khủng hoảng kinh tế, những điều trông đợi của con người hết sức giản đơn bởi thường gắn với công thức “tình hình không xấu hơn là được”; Thứ hai, có tình huống xảy ra mà trong đó những điều trông đợi, những đòi hỏi tăng nhanh hơn so với khả năng đáp ứng chúng. Trong những trường hợp trên đây, chúng ta đều nhận thấy sự gia tăng khác biệt, đồng thời với điều đó, là sự hình thành như một tất yếu các cuộc xung đột xã hội.
– Do xung đột về lợi ích
Quan niệm về sự cách biệt, xét về thực chất nếu lên được cơ chế chung của sự tác động qua lại và của việc thực hiện các nhu cầu và lợi ích trong xã hội. Sự mâu thuẫn giữa cá lợi ích cá nhân, nhóm xã hội với những khả năng khách quan trong đời sống xã hội, sự tác động qua lại giữa chúng và những chủ thể khác của xã hội trong những điều kiện cụ thể – về nguyên tắc, đó là mâu thuẫn về lợi ích của một số người với lợi ích của những người khác vốn cản trở họ thực hiện những lợi ích đó.
3.2. Nguyên nhân chủ quan:
Xung đột xã hội là hiện tượng xã hội tiêu cực về cơ bản gắn liền với các quá trình và hiện tượng tiêu cực trong đời sống, xã hội. Nguồn gốc sâu xa và nguyên nhân trực tiếp của tình hình xung đột xã hội xuất phát từ những điều dưới đây:
+ Do lực lượng cầm quyền có chính sách trái với yêu cầu, nguyện vọng của các nhóm xã hội, cá nhân.
+ Do trình độ, năng lực cầm quyền của lực lượng lãnh đạo, quản lý.
+ Do nhận thức, tâm lý của con người.
+ Do thông tin sai lạc hoặc bị bóp méo về chính sách, sự kiện.
+ Do không thỏa hiệp được cách giải quyết mâu thuẫn, khác biệt.
Có thể thấy khi bị ảnh hưởng tiêu cực của các vấn đề trên mà không thể tìm được tiếng nói chung thì xung đột xã hội sẽ là lẽ tất yếu xảy ra.
4. Mối liên hệ giữa xung đột xã hội và nguyên tắc đồng thuận:
– Để giải quyết được các xung đột – xét về thực chất, đó là kết quả đạt được do có sự đồng thuận giữa các bên về tranh chấp. Về nguyên tắc, có ba dạng chủ yếu của sự đồng thuận: 1) Sự đồng thuận vốn là kết quả của sự trùng nhau về ý kiến các bên; 2) Sự đồng thuận phù hợp với ý chí của Pháp luật và đạo đức; 3) Sự đồng thuận có được do một trong các bên đối đầu ép buộc (đồng thuận do ép buộc sẽ không giải quyết xung đột xã hội được một cách triệt để).
– Trong lịch sử phát triển của Việt Nam, nguyên tắc đồng thuận đóng một vai trò hết sức to lớn trong việc tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc, điều đó đã được thể hiện rõ nét nhất trong lịch sử bảo vệ và xây dựng đất nước của dân tộc Việt Nam từ xưa, cũng như trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đã và đang tiến hành. Lịch sử quá trình dựng nước và giữ nước của Việt Nam đã chứng minh một cách hùng hồn rằng, bất cứ khi nào phát huy được khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở nguyên tắc đồng thuận thì sẽ tạo nên sức mạnh to lớn để có thể chiến thắng bất cứ kẻ thù nào, vượt bất cứ khó khăn.
– Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay của nước ta, việc phát huy nguyên tắc đồng thuận là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu, góp phần ổn định đời sống kinh tế – xã hội, ổn định chính trị, từ đó tạo nên động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có thể nói đồng thuận là chủ trương xuyên suốt và có tính bền vững trong việc giải quyết các xung đột xã hội.
– Trong số những chủ thể tham gia xung đột, về nguyên tắc, không có ai trong số họ là người hoàn toàn không có quyền (hoặc hoàn toàn sai trái).
Những chủ thể tham gia chính trong cuộc xung đột có thể đi đến thỏa thuận với nhau nếu những yêu cầu mà họ cho là cơ bản được nhắc đến. Nhìn từ khía cạnh dân chủ của sự điều chỉnh xung đột xã hội, sẽ là không có triển vọng nếu tách một bên ra khỏi sự điều chỉnh, bỏ qua những quan điểm cá nhân của những chủ thể riêng biệt. Nhìn từ góc độ chính trị – pháp luật, giải quyết xung đột xã hội trước hết đó là giải quyết yêu cầu của các nhóm lớn, đối với số đông. Do đó, nguyên tắc đồng thuận là nguyên tắc ứng xử của xã hội hiện đại theo số đông. Đó là nguyên tắc giải quyết xung đột xã hội trên cơ sở tinh thần hợp tác, hòa hợp vì cộng đồng vì mục tiêu chung, lấy sự đối thoại làm nền tảng cơ bản thay vì đối đầu, xung đột. Như thế, nguyên tắc đồng thuận trời thành chìa khóa trong giải quyết xung đột xã hội.
Để làm rõ được vấn đề nguyên tắc đồng thuận có mối liên hệ trong việc điều chỉnh xung đột xã hội như thế nào, ta sẽ tập trung tìm mối quan hệ giữa một số nguyên nhân sâu xa gây ra xung đột xã hội với đồng thuận xem nó như thế nào:
– Lợi ích, nhu cầu cá nhân rất dễ gây ra xung đột xã hội. C.Mác đã từng nhấn mạnh rằng, tất cả những gì con người hướng tới và đấu tranh để giành lấy đều gắn liền với lợi ích của họ. Nhu cầu và lợi ích là những động lực thúc đẩy con người hành động. Lợi ích là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự đồng thuận. Không có lợi ích thì tư tưởng cao siêu đến mấy cũng mất giá trị. Việc đảm bảo lợi ích cho các tầng lớp, giai cấp và các thành viên trong xã hội là một trong những biện pháp quan trọng tạo nên sự đồng thuận. Ngược lại, một khi lợi ích không được đảm bảo nó sẽ phá vỡ đồng thuận.
Nói cách khác vì lợi ích mà con người có thể cùng nhau đi đến đồng thuận nhưng ngược lại cũng vì lợi ích mà con người cũng sẽ đi đến xung đột. từ phân tích trên ta có thể thấy đồng thuận và xung đột xã có một phần hỗ trợ nhau phát triển. Vì sao chỉ nói là một phần hỗ trợ nhau, bởi vì chỉ có những nhu cầu và lợi ích hợp pháp mới là nền tảng thực sự cho đồng thuận. Có thể nói, khi nhu cầu và lợi ích ngày càng phát triển và phong phú bao nhiêu thì sự phân hóa, phân tầng xã hội cũng diễn ra mạnh mẽ bấy nhiêu. Trong khi đồng thuận là nguyên tắc gắn kết, ổn định, cho nên sự phân hóa là đối cự của đồng thuận, sự phân hóa càng rõ nét thì việc xây dựng đồng thuận càng khó khăn.
– Nguyên tắc đồng thuận thực chất là kết quả của một “khế ước” giữa các chủ thể hoặc nhóm chủ thể khác nhau. Ở khế ước đó mọi chủ thể đều có được sự dân chủ như nhau. Đều có quyền lên tiếng, góp ý và thay đổi những lợi ích và nhu cầu chính đáng của bản thân. Nếu không có sự dân chủ, sẽ không có công bằng như vậy mâu thuẫn sẽ nảy sinh và dẫn tới xung đột. Dân chủ càng được phát huy bao nhiêu thì sẽ càng tạo điều kiện cho đồng thuận bấy nhiêu.
Chỉ khi nào dân chủ là thực chất (chứ không phải hình thức, giả hiệu, mị dân – mà những biểu hiện thường thấy trong cuộc sống, đi liền với sự vi phạm dân chủ) thì khi đó mới có đồng thuận thực sự. Vai trò của dân chủ là hết sức to lớn, đó là cơ sở tinh thần của đồng thuận. Mức độ đồng thuận sẽ lớn dần lên khi dân chủ phát triển; nó là sự phát triển của tự ý thức cá nhân về vị trí, vai trò và trách nhiệm xã hội của mình trước cá nhân khác và cộng đồng Dân chủ cũng chính là đảm bảo lợi ích của các cá nhân và tầng lớp trong xã hội, hài hòa các lợi ích trong xã hội.
Không thể xem 2 yếu tố trên có tính chất quyết định đối với đồng thuận mà nó chỉ song hành cùng nguyên tắc đồng thuận và có xu hướng tỷ lệ thuận với đồng thuận lợi ích và dân chủ phát triển bao nhiêu thì đồng thuận càng được tăng cường bấy nhiêu. Do đó việc đảm bảo 2 yếu tố trên sẽ tác động tích cực tới đồng thuận, trái lại sẽ phá vỡ đồng thuận tạo mầm mống cho xung đột xã hội. Phân tích trên góp phần làm chúng ta sáng tỏ một phần nữa về mối liên hệ giữa nguyên tắc đồng thuận với xung đột xã hội. Đó là việc kìm hãm lẫn nhau.