Trong quan hệ giữa các quốc gia, lãnh thổ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi lãnh thổ là cơ sở để duy trì ranh giới quyền lực nhà nước đối với một cộng đồng dân cư nhất định, ổn định trong quan hệ giao lưu quốc tế. Vậy vùng lãnh thổ là gì và giữa vùng lãnh thổ, quốc gia có những điểm khác biệt như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Vùng lãnh thổ là gì?
– Lãnh thổ là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng La tinh “Terra” có nghĩa là đất đai, Trái Đất. Lãnh thổ là một trong các yếu tố cơ bản cấu thành nên quốc gia vì đó là môi trường tự nhiên, là cơ sở vật chất cho sự tồn tại của từng quốc gia trong cộng đồng quốc tế.
– Trong luật quốc tế, các quy định pháp lý về lãnh thổ chủ yếu điều chỉnh việc xây dựng quy chế pháp lý của các loại lãnh thổ, xác định chủ quyền và việc thực hiện chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ, giải quyết hệ quả của thực thi chủ quyền lãnh thổ như phân định lãnh thổ, giải quyết tranh chấp về lãnh thổ… Tựu trung lại, trong luật quốc tế hiện đại, lãnh thổ được xác định là toàn bộ Trái Đất, bao gồm các bộ phận cấu thành là vùng đất, vùng nước, vùng trời, vùng lòng đất và kể cả khoảng không vũ trụ.
– Vùng lãnh thổ tên tiếng Anh: ” Territory“
2. Phân biệt quốc gia và vùng lãnh thổ:
* Thứ nhất, về đặc điểm:
– Vùng lãnh thổ: Về phương diện tự nhiên, lãnh thổ không có ranh giới phân chia vùng, miền nhưng về pháp lý quốc tế, có sự phân biệt các loại lãnh thổ với quy chế pháp lý khác nhau.
– Quốc gia:
+ Vấn đề xem xét về quốc gia với tư cách chủ thể cơ bản của luật quốc tế có liên hệ mật thiết với các yếu tố để hình thành và phát triển quốc gia. Cho đến nay, chưa có định nghĩa thống nhất trên bình diện quốc tế về quốc gia. Tuy vậy, cách tiếp cận của khoa học pháp lý quốc tế truyền thống và hiện đại cũng đã xác định những tiêu chí được thừa nhận rộng rãi về thực thể có danh nghĩa quốc gia. Theo quy định của Điều 1 Công ước Montevideo năm 1933 về quyền và nghĩa vụ quốc gia thì một thực thể được coi là quốc gia theo pháp luật quốc tế phải có bốn yếu tố cơ bản sau: (1) Dân cư thường xuyên; (2) Lãnh thổ được xác định; (3) Chính phủ; (4) Năng lực tham gia vào các quan hệ với các chủ thể quốc tế khác.
+ Việc thừa nhận một thực thể có tư cách quốc gia trong quan hệ quốc tế thường dựa vào các tiêu chí nêu trên nhưng một quốc gia đang tồn tại trong thực tế có xác định sẽ thiết lập quan hệ với thực thể có đầy đủ tiêu chí của quốc gia, mới xuất hiện trong đời sống quốc tế ở cấp độ quan hệ quốc gia hay không lại không do những tiêu chí này quyết định. Nói cách khác, một thực thể có đủ các yếu tố cấu thành quốc gia nhưng không thể buộc các quốc gia khác phải công nhận tư cách quốc gia của thực thể này trong một quan hệ song phương. Việc công nhận và thiết lập quan hệ hợp tác giữa các quốc gia với nhau hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí và mong muốn chủ quan của các quốc gia trên cơ sở chủ quyền quốc gia.
+ Khác với chủ thể phát sinh, quốc gia là chủ thể có thuộc tính pháp lý-chính trị đặc thù là chủ quyền, với thuật ngữ phổ cập là chủ quyền quốc gia. Từ trước đến nay tồn tại nhiều học thuyết khác nhau về chủ quyền quốc gia như Thuyết chủ quyền tuyệt đối là một trong những thuyết phản động về chủ quyền quốc gia. Thuyết này xuất hiện vào khoảng thế kỷ XV – XVI ở châu Âu với tính cách là trào lưu chống lại quyền lực vô hạn của Đức Giáo Hoàng và Hoàng đế La Mã. Các luật gia quốc tế danh tiếng như Grotius. Bodin, Achiavel… là những người đầu tiên khởi xướng Thuyết chủ quyền tuyệt đối.
* Thứ hai, về phân loại:
– Vùng lãnh thổ: bao gồm:
+ Lãnh thổ quốc gia: Lãnh thổ quốc gia là các bộ phận lãnh thổ thuộc chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối hay riêng biệt của một quốc gia, tại đó, quốc gia duy trì giới hạn quyền lực nhà nước đối với cộng đồng dân cư nhất định. Lãnh thổ quốc gia là toàn vẹn và bất khả xâm phạm dựa trên quy chế pháp lý về lãnh thổ quốc gia do quốc gia tự xác định, phù hợp với luật quốc tế.
+ Lãnh thổ quốc tế:
Lãnh thổ quốc tế là những bộ phận lãnh thổ được sử dụng chung cho cả cộng đồng quốc tế như biển quốc tế, vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế, vùng trời quốc tế, vùng đáy biển quốc tế, khoảng không vũ trụ (kể cả Mặt Trăng và các hành tinh) và châu Nam Cực.
Đối với lãnh thổ quốc tế, tất cả các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế đều có quyền bình đẳng sử dụng vào mục đích hoà bình và phát triển. Nguyên tắc chung có ý nghĩa là cơ sở cho việc sử dụng các bộ phận lãnh thổ quốc tế được ghi nhận tại các ngành luật của hệ thống luật quốc tế như Nguyên tắc tự do biển cả (trong Luật biển quốc tế); Nguyên tắc tự do bay trong vùng trời quốc tế (trong Luật hàng không quốc tế); Nguyên tắc vùng và di sản trên vùng là di sản chung của nhân loại;
Nguyên tắc tự do nghiên cứu và sử dụng khoảng không vũ trụ, hay còn được gọi là Nguyên tắc không thiết lập chủ quyền quốc gia đối với khoả (trong Luật vũ trụ quốc tế)… Như vậy, tính chất sở hữu quốc tế không chấp nhận việc bất cứ một quốc gia nào xác lập chủ quyền hoặc quyền chủ quyền của mình đối với bất kỳ một bộ phận nào của lãnh thổ quốc tế
+ Lãnh thổ có quy chế hỗn hợp:
Lãnh thổ có quy chế hỗn hợp là loại lãnh thổ mà tại đó các quốc gia không có chủ quyền lãnh thổ riêng biệt nhưng có các quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán như đối với vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.
Lãnh thổ có quy chế hỗn hợp không phải là lãnh thổ quốc tế và cũng không phải là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia nhưng do sự tiếp liền về lãnh thổ mà luật quốc tế quy định cho quốc gia tiếp liền có các quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán đối với các vùng lãnh thổ này. Bên cạnh đó, quyền của các chủ thể khác cũng được thừa nhận và duy trì. Quy chế pháp lý của loại lãnh thổ này được xác định hỗn hợp theo cả luật quốc tế (Luật biển quốc tế) và luật quốc gia.
+ Lãnh thổ quốc gia sử dụng quốc tế:
Lãnh thổ quốc gia sử dụng quốc tế là những bộ phận của lãnh thổ quốc gia nhưng do sự đặc thù về vị trí địa lý, chính trị, kinh tế… của những vùng lãnh thổ này mà quy chế pháp lý của chúng được quốc tế hoá một phần nhằm phục vụ cho lợi ích của toàn thể cộng đồng quốc tế, bao gồm kênh quốc tế, sông quốc tế, eo biển quốc tế.
+ Kênh quốc tế: Kênh quốc tế là một đường giao thông nhân tạo được đào trên lãnh thổ của một quốc gia để nối hai bộ phận của các vùng biển tự do (biển quốc tế hoặc vùng đặc quyền kinh tế) như kênh Xuy – ê được đào qua Ai Cập nối giữa Địa Trung Hải và Biển Đỏ, kênh Panama đào trên lãnh thổ của Panama nối liền Đại Tây Dương và Thái Dình Dương, kênh Ken của Đức nối giữa biển Bantích và Biển Bắc.
– Về quốc gia:
+ Nội dung của Thuyết chủ quyền tuyệt đối được quan niệm là chủ quyền quốc gia phải được đặt lên trên tất cả mọi quyền lợi khác. Về phương diện đối nội, chủ quyền quốc gia chỉ bị giới hạn bởi pháp luật thiên nhiên. Về phương diện đối ngoại, chủ quyền quốc gia chỉ bị hạn chế bởi hoàn cảnh, không có một quyền lực nào trên chủ quyền quốc gia. Muốn bành trường quyền lợi quốc gia thì tất cả các phương kế, các chính sách đều cần được sử dụng, kể cả các thủ đoạn xảo quyệt, gian trá, trái với đạo lý con người và các quy ước xã hội.
+ Ngày nay, quan niệm về chủ quyền quốc gia có tính chất tuyệt đối là đi ngược lại các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại mà về bản chất và thực tiễn là sự phủ nhận chủ quyền của các quốc gia khác cũng như đi ngược lại lợi ích của sự phát triển cộng đồng. Ngoài ra, một số học thuyết khác về chủ quyền quốc gia như Học thuyết chủ quyền tương đối cũng đã thịnh hành nhưng đều có những điểm hạn chế nhất định.
+ Trong thời đại hiện nay, chủ quyền quốc gia được hiểu là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia có quyền lực chính trị tối cao. Quyền lực chính trị tối cao này thể hiện qua các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của quốc gia mà quan trọng hơn cả là quyền quyết định mọi vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của quốc gia và các quốc gia khác không có quyền can thiệp.
+ Trong quan hệ quốc tế, quốc gia hoàn toàn độc lập, không bị lệ thuộc vào các quốc gia khác trong giải quyết vấn đề đối ngoại của mình. Việc tham gia của quốc gia vào các tổ chức quốc tế, vào các hoạt động quốc tế liên quốc gia và các hình thức hợp tác quốc tế khác là biểu hiện rõ nét kết quả thực hiện chủ quyền đối ngoại của quốc gia.
3. Quy chế pháp lý của quốc gia và vùng lãnh thổ:
– Vùng lãnh thổ: Quy chế pháp lý của kênh quốc tế khẳng định chủ quyền lãnh thổ của quốc gia có kênh (Ai Cập đối với kênh Xuy Ê, Đức đối với kênh Ken, Panama đối với kênh Panama…), đồng thời xác định quy chế đi lại của kênh được quốc tế hoá thông qua phương thức thoả thuận giữa các quốc gia để đảm bảo quyền tự do đi lại của mọi tàu thuyền trên kênh (thể hiện qua các điều ước quốc tế quy định về quy chế pháp lý của các kênh này như Công ước Constantinop về kênh Xuy Ê, Hiệp ước Vécxây về kênh Ken…).
+ Sông quốc tế: Sông quốc tế là sông nằm trên lãnh thổ của nhiều quốc gia, có thể là sông chảy kế tiếp từ quốc gia này sang quốc gia khác (sông kế tiếp) hoặc có thể là sông để xác định biên giới (sông biên giới) và có quy chế sông quốc tế.
Sông quốc tế thuộc chủ quyền lãnh thổ của quốc gia có sông nhưng vì sông có lợi ích chung cho nhiều quốc gia nên quy chế pháp lý của sông được quốc tế hoá một phần. Quy chế pháp lý sông quốc tế điều chỉnh những nội dung chủ yếu sau:
– Chế độ qua lại trên sông quốc tế của tàu thuyền, theo nguyên tắc chung, do các nước ven sông quy định. Tàu thuyền của các nước ven sông có quyền ipso facto (quyền thủy vận đương nhiên) trên các đoạn sông nằm ở nước khác, phù hợp với điều kiện đã được các nước ven sông thoả thuận đồng ý. Tàu thuyền của các nước khác tuy không có quyền ipso facto nhưng được hưởng quyền tự do đi lại trên sông quốc tế theo các điều ước tương ứng. Tàu quân sự, hải quan, cảnh sát của nước ven sông có quyền đỗ lại trong giới hạn đường biên giới, ngoài giới hạn này phải có sự đồng ý của nước hữu quan.
– Vấn đề sử dụng nguồn nước sông quốc tế: Các nước ven sông có quyền bình đẳng trong việc sử dụng nguồn nước của sông quốc tế vào mục đích công nghiệp, kinh tế như xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện, nuôi cá… Về công trình thủy lợi, thuỷ điện theo quy tắc Henxinki 1966 và Công ước Giơnevơ 1923 thì các quốc gia ở lưu vực sông có quyền sử dụng hợp lý và đúng đắn các lượng nước đã được phân định giữa các nước ven sông, tránh gây ô nhiễm hoặc thiệt hại cho nước ven bờ khác. Các mâu thuẫn phát sinh từ việc sử dụng này giải quyết qua điều ước quốc tế hữu quan.
– Về quốc gia: Các quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản của quốc gia được hình thành và phát triển phù hợp với sự phát triển tiến bộ của luật quốc tế. Trong các văn kiện pháp lý quốc tế hiện đại, các quyền cơ bản của quốc gia bao gồm:
– Quyền bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi:
– Quyền được tự vệ cá nhân hoặc tự vệ tập thể;
– Quyền được tồn tại trong hoà bình và độc lập;
– Quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ;
– Quyền được tham gia vào việc xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế;
– Quyền được tự do quan hệ với các chủ thể khác của luật quốc tế;
– Quyền được trở thành thành viên của tổ chức quốc tế phổ biến.
– Tương ứng với các quyền cơ bản nêu trên, quốc gia có các nghĩa vụ quốc tế cơ bản:
– Tôn trọng chủ quyền của các quốc gia;
– Tôn trọng sự bất khả xâm phạm lãnh thổ của các quốc gia khác;
– Không áp dụng vũ lực và đe dọa bằng vũ lực;
– Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
– Hợp tác hữu nghị với các quốc gia khác nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế;
– Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế;
– Tôn trọng những quy phạm Jus cogens và những cam kết quốc tế;
– Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hoà bình.
– Tuy nhiên, trong quan hệ quốc tế, quốc gia có thể tự hạn chế những quyền và nghĩa vụ cơ bản của mình trong những lĩnh vực và phạm vi nhất định, với điều kiện, không trái với các quy ước quốc tế (ví dụ, quốc gia theo đuổi chế độ nhà nước trung lập thường xuyên, chính sách không liên kết vv.) hoặc cũng có thể gánh vác thêm những quyền và nghĩa vụ bổ sung nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế (ví dụ, chế độ các cường quốc theo Hiến chương Liên hợp quốc). Song tất cả những việc làm nêu trên không hàm ý quốc gia bị hạn chế hoặc mở rộng chủ quyền trái với ý chí quốc gia.