Như chúng ta đã biết thì virus cytomegalo (CMV) là một loại virus gây nhiễm trùng thường gặp. Nhiễm trùng cytomegalovirus có thể tấn công bất kỳ ai, đặc biệt là phụ nữ mang thai, trẻ em, những người có hệ miễn dịch kém, suy giảm hệ miễn dịch.
Mục lục bài viết
1. Virus cytomegalo (CMV) là gì?
Virus cytomegalo (CMV) là giống virus thuộc họ Herpesviridae hoặc Herpesviruses. Cái tên cytomegalo bắt nguồn từ Hy Lạp, có nghĩa là tế bào lớn. Đây là loại virus được nghiên cứu nhiều nhất của tất cả cytomegoliviruses.
Virus Cytomegalo thuộc phụ họ Betaherpesvirinae, có liên quan đến các Herpesviruses khác trong phụ họ của Alphaherpesvirinae và phụ họ Gammaherpesvirinae subfamily gồm Epstein-Barr virus. Tất cả các virus này có thể ẩn náu trong cơ thể một thời gian dài. Tuy virus cytomegalo có thể tìm thấy ở khắp mọi nơi trong cơ thể nhưng nhiễm trùng CMV thường liên quan đến tuyến nước bọt.
Virus cytomegalo là virus double-stranded DNA virus và là một phần của họ Herpesviridae. Cytomegalo chia sẻ nhiều sự quy kết với các loại virus herpes khác, gồm cấu trúc bộ gen, virion và có thể gây ra các tình trạng nhiễm trùng tiềm tàng và trường diễn.
Tại Mỹ có ít nhất 60% dân số phơi nhiễm với virus CMV. Tại các nước đang phát triển, hầu hết tình trạng nhiễm trùng mắc phải ở trẻ nhỏ; còn ở các quốc gia phát triển thì 50% người trưởng thành có kết quả huyết thanh được chẩn đoán CMV âm tính.
Nhiễm CMV bẩm sinh, xảy ra trong khoảng từ 0,2 đến 1% số trẻ sơ sinh sống trên toàn thế giới, hậu quả từ nhiễm trùng trực tiếp qua bánh rau ở những bà mẹ nhiễm CMV nguyên phát hay tái phát . Biểu hiện lâm sàng có thể rõ ràng ở trẻ sơ sinh của những bà mẹ có nhiễm CMV tiên phát, đặc biệt là nhiễm trong nửa đầu thai kỳ. Ở một số quốc gia với nền kinh tế xã hội phát triển như Hoa Kỳ, khoảng 50% phụ nữ trẻ thiếu kháng thể với CMV, có nguy cơ nhiễm tiên phát tong quá trình mang thai
Nhiễm trùng CMV chu sinh do tiếp xúc với chất bài tiết cổ tử cung ở bà mẹ nhiễm bệnh, sữa mẹ hoặc các sản phẩm từ máu có nhiễm bệnh. Kháng thể mẹ có khả năng là bảo vệ cho trẻ và hầu hết trẻ sơ sinh bị phơi nhiễm thường không có triệu chứng hoặc không bị nhiễm bệnh. Ngược lại, trẻ non tháng (không có kháng thể kháng CMV) có thể bị nhiễm CMV nặng hoặc có thể tử vong, đặc biệt khi truyền máu có CMV dương tính. Việc thực hiện truyền máu và các chế phẩm từ máy khác cho những trẻ sơ sinh cần được đảm bảo CMV âm tính hoặc sử dụng máu đã được lọc để loại bỏ bạch cầu, mang CMV. Như vậy, nhiều chuyên gia cho rằng máu đã được loại bỏ bạch cầu là an toàn cho nguy cơ nhiễm CMV.
2. Dấu hiệu và các bệnh lý của Virus cytomegalo (CMV):
Bệnh nhân tăng bạch cầu đơn nhân CMV đôi khi có thể được phân biệt với tăng bạch cầu đơn nhân truyền nhiễm (EBV) không có viêm họng bằng trắc nghiệm kháng thể dị ái và xét nghiệm huyết thanh học. Nhiễm trùng CMV có thể được phân biệt với viêm gan virut bằng xét nghiệm huyết thanh học viêm gan. Xác nhận nhiễm CMV nguyên phát chỉ cần thiết để phân biệt nó với các tình trạng khác, đặc biệt có thể điều trị, hoặc bệnh nghiêm trọng.
Sự đảo chiều huyết thanh có thể được chứng minh bằng sự phát triển của các kháng thể CMV và đòi hỏi nhiễm CMV mới. Tuy nhiên, nhiều bệnh do CMV gây ra từ việc kích hoạt lại bệnh tiềm ẩn ở người chủ yếu bị suy giảm miễn dịch. Kích hoạt lại CMV có thể dẫn đến virut trong nước tiểu, các chất dịch cơ thể hoặc mô khác, nhưng sự hiện diện của CMV trong dịch cơ thể và mô không phải lúc nào cũng chỉ ra bệnh và có thể chỉ là sự lộ ra. Do đó, sinh thiết cho thấy CMV gây ra bất thường thường là cần thiết để chứng minh bệnh xâm nhập. Việc phát hiện định lượng kháng nguyên CMV hoặc DNA trong máu ngoại vi cũng có thể rất hữu ích bởi vì mức độ của CMV tăng hoặc tăng cao thường gợi ý rất nhiều về bệnh xâm lấn.
Ở trẻ sơ sinh, việc phát hiện virut bằng cách sử dụng nuôi cấy hoặc PCR của nước tiểu, nước bọt, hay mô mô là công cụ chẩn đoán chính; chẩn đoán của người mẹ cũng có thể được thực hiện bằng xét nghiệm huyết thanh học hoặc PCR (xem ). Mẫu cấy được làm lạnh đến khi tiêm tế bào nguyên bào sợi. CMV bẩm sinh được chẩn đoán nếu virus được xác định trong nước tiểu, nước bọt, hoặc các chất dịch cơ thể khác thu được trong vòng 2 đến 3 tuần đầu tiên của cuộc đời; nước tiểu và nước bọt có độ nhạy cao nhất. Sau 3 tuần, phát hiện virus có thể cho thấy nhiễm trùng chu sinh hoặc bẩm sinh. Trẻ sơ sinh có thể thải CMV trong nhiều năm sau với cả trường hợp nhiễm bẩm sinh hay sau sinh
Biến đổi công thức máu hoặc chức năng gan có thể gặp nhưng không đặc hiệu. Siêu âm não hoặc CT sọ não và khám mắt cần được chỉ định trong nhiễm CMV. Vôi hóa quanh não thất thường thấy trên CT. Đo chức năng thính giác nên được tiến hành ở tất cả những trường hợp trẻ sơ sinh bị nhiễmCMV và cần theo dõi sát sau đó do tình trạng giảm thính lực có thể phát triển sau giai đoạn sơ sinh và tiếp tục tiến triển thêm.
Virus cytomegalo gây ra tình trạng nhiễm trùng không triệu chứng, do đó thường rất khó phát hiện bệnh. Virus vẫn tồn tại tiềm tàng bên trong cơ thể con người suốt cuộc đời và có thể tái hoạt động bất cứ lúc nào. Cơ thể được xác định là nhiễm trùng khi phân lập CMV, các protein virus của CMV hoặc nucleic acid từ một mô hay dịch cơ thể bất kỳ.
Cytomegalovirus liên quan đến virus gây bệnh thủy đậu, herpes simplex. Ở những người bị suy giảm miễn dịch, khi mắc các bệnh do CMV gây ra thường có biểu hiện như hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân.
Như đã nói, một khi cơ thể đã nhiễm CMV thì nó sẽ tồn tại trong cơ thể suốt đời. Chu kỳ của CMV gồm giai đoạn ở thể ngủ và giai đoạn hoạt động trở lại. Khi cơ thể khỏe mạnh, CMV chủ yếu không hoạt động. Khi hệ miễn dịch bị suy giảm, CMV có thể tái hoạt động và gây ra bệnh lý cho cơ thể.
Nhiễm trùng cytomegalovirus có thể lây truyền từ người này sang người khác thông qua việc tiếp xúc với dịch cơ thể của người bệnh, bao gồm: máu, nước bọt, nước tiểu, sữa, tinh dịch.
CMV chỉ có thể lây truyền trong giai đoạn virus đang hoạt động. Nghĩa là nếu tiếp xúc với người mang virus trong thời gian virus ngủ thì sẽ không bị lây. Phụ nữ đang mang thai và nhiễm trùng CMV tiến triển thì có thể truyền virus sang trẻ.
Các hoạt động có thể gây lây nhiễm CMV bao gồm:
+ Chạm vào mắt, lỗ mũi, miệng của mình sau khi tiếp xúc với dịch của người nhiễm virus. Đây là con đường lây truyền CMV phổ biến nhất;
+ Quan hệ tình dục không sử dụng bao cao su với người nhiễm virus;
+ Lây từ mẹ sang con thông qua sữa mẹ. Tuy nhiên trường hợp này rất ít khi xảy ra;
+ Lây qua việc truyền máu, cấy ghép các cơ quan trong cơ thể;
+ Lây từ mẹ sang con thông qua nhau thai
3. Triệu chứng nhiễm trùng cytomegalovirus:
Trẻ sơ sinh nếu bị nhiễm CMV bẩm sinh (từ trong bụng mẹ), trẻ bị nhiễm CMV trong sinh hoặc sau sinh do bú sữa mẹ hoặc hệ miễn dịch kém thường có nhiều nguy cơ tiến triển các triệu chứng hơn những người khỏe mạnh.
3.1. Triệu chứng nhiễm CMV ở trẻ em:
Phụ nữ nhiễm CMV trước khi mang thai có thể truyền virus sang con. Nếu là nhiễm CMV nguyên phát thì nguy cơ truyền sang con cao hơn là nhiễm CMV tái phát. Quá trình lây nhiễm thường diễn ra trong khoảng 3 tháng đầu thai kỳ.
Đa số trẻ nhiễm CMV trong thời gian mang thai thường có biểu hiện bình thường khi sinh. Các dấu hiệu sẽ tiến triển dần theo thời gian, phải mất vài tháng, thậm chí là vài năm. Triệu chứng thường gặp nhất ở trẻ nhiễm CMV ngay sau sinh là mất thính lực hoạc tiến triển suy yếu thị lực. Trẻ bị nhiễm CMV bẩm sinh thường rất yếu và có xu hướng ngày càng yếu đi. Các triệu chứng nhiễm CMV của trẻ bao gồm:
+ Trẻ bị vàng mắt, vàng da;
+ Trên da có vết thâm tím, ban đỏ;
+ Trẻ sinh ra nhẹ cân;
+ Trẻ bị phì đại lá lách;
+ Trẻ bị phì đại gan, chức năng gan kém;
+ Trẻ bị khó thở;
+ Co giật.
3.2. Triệu chứng nhiễm trùng cytomegalovirus ở người suy giảm miễn dịch:
Những người suy giảm miễn dịch bị nhiễm CMV thường có biểu hiện giống như một loại bệnh truyền nhiễm. Virus này cũng có thể tấn công các cơ quan khác trong cơ thể. Triệu chứng cụ thể bao gồm:
+ Sốt;
+ Tiêu chảy;
+ Viêm phổi;
+ Viêm gan;
+ Viêm não;
+ Loét ống tiêu hóa;
+ Thay đổi hành vi;
+ Suy giảm thị lực, thậm chí là mù lòa;
+ Co giật;
+ Ngất.
3.3. Triệu chứng nhiễm CMV ở người khỏe mạnh:
Đa số những người khỏe mạnh nhiễm CMV thường ít có biểu hiện cụ thể. Các triệu chứng thường tương tự như nhiễm trùng, gồm: sốt, đau nhức cơ thể, mệt mỏi.
Bệnh nhân Cytomegalovirus (CMV) cần được cách ly với các trẻ sơ sinh khác Mặc dù hầu hết trẻ sơ sinh nhiễm CMV đều không có triệu chứng nhưng có nguy cơ phát tán virus. Mốt số trường hợp có triệu chứng nặng có thể đe doạ đến tính mạch và gây hậu quả nghiêm trọng
Chưa có dữ liệu rõ ràng về thời điểm nhiễm CMV tiên phát ở những phụ nữ có thai có thể an toàn Vì không thể đánh giá được nguy cơ thai nhi, nên với những phụ nữ nhiễm CMV nguyên phát trong thời kỳ mang thai cần được tư vấn. Tuy nhiên có rất ít chuyên gia khuyến cáo nên xét nghiệm thường quy kháng thể CMV trước hoặc trong quá trình mang thai ở phụ nữ khỏe mạnh.