Trong những thể thơ đặc sắc nhất không thể không kể đến thơ lục bát. Đây là một thể loại thơ được sử dụng phổ biến bởi những nhà thơ. Bài viết là tổng hợp những đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ lục bát siêu hay.
Mục lục bài viết
- 1 1. Dàn ý viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát:
- 2 2. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát ý nghĩa nhất:
- 3 3. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát siêu hay:
- 4 4. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát siêu ngắn:
- 5 5. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát siêu dễ nhớ:
1. Dàn ý viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ lục bát:
Mở bài:
Giới thiệu tên bài thơ lục bát, tác giả (nếu có), cảm nghĩ chung về bài thơ đó.
Thân bài:
Chỉ ra một nội dung hoặc nghệ thuật cụ thể của bài thơ khiến em yêu thích và gợi nhiều cảm xúc, suy nghĩ. Ví dụ: nội dung bài thơ viết về gia đình thân thuộc, về tình cảm yêu thương gắn bó giữa mọi người…; Về hình thức, bài thơ sử dụng thể lục bát quen thuộc thể hiện nhịp nhàng, vần điệu thể hiện tình cảm gia đình…
Giải thích vì sao em thích. Chẳng hạn, về nội dung, bài thơ mang đến cho em những kỉ niệm, những tình cảm, cảm xúc đẹp đẽ về ông, bà, cha, mẹ…; về nghệ thuật, tác giả đã sử dụng ngôn từ, hình ảnh rất sinh động, giàu tính gợi cảm; tỷ lệ tu từ và cách gieo vần, nhịp điệu độc đáo của thể thơ lục bát…
Kết bài:
Tổng quát lại cảm nghĩ của bản thân về ý nghĩa của bài thơ lục bát đó
2. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát ý nghĩa nhất:
Mẫu số 1:
Những đứa trẻ Việt Nam và hầu như cả người lớn cũng đều yêu thích và hạnh phúc khi được đắm chìm trong lời ru ngọt ngào của mẹ và bà từ thuở lọt lòng. Câu ca dao “Công cha nghĩa mẹ” hình như còn đọng lại trong ký ức mỗi người, được thể hiện sâu sắc:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
Câu thứ nhất nói về “công cha”. Công cha đã từng được so sánh với núi Thái Sơn; Ở đây người cha được so sánh với “núi trời”, núi hùng vĩ, núi cao, núi nhiều tầng mây xanh, núi chọc trời. Câu thứ hai nói về “công mẹ” – nghĩa mẹ thật bao la, to lớn, khôn tả. Ý nghĩa của mẹ được so sánh với “nước ở ngoài biển Đông”. Nghệ thuật so sánh, đối xứng đã tạo nên hai hình ảnh tuyệt vời vừa là hiện thân, hình tượng vừa tôn vinh nghĩa mẹ cha, tình nghĩa sâu nặng. Câu ca dao nhẹ nhàng nhắc nhở chúng ta hãy ngước nhìn núi cao, trời cao, nhìn xa ra biển, lắng nghe tiếng sóng vỗ cùng con sóng lăn tăn và ngẫm nghĩ về công lao của các bậc cha mẹ. Thật thấm thía và xúc động
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.“
Hai câu cuối, giọng thơ ngọt ngào thiết tha. Tiếng cảm thán “con ơi!” là thông điệp yêu thương về đạo làm con “nhớ” công cha,nghĩa mẹ:
“Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
Câu trên sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, nhắc lại, nhấn mạnh công cha nghĩa mẹ như “Núi cao biển rộng mênh mông” để nói lên công ơn to lớn của cha mẹ như sinh thành, nuôi nấng, dưỡng dục, dưỡng dục, dạy dỗ. Bài ca dao là lời nhắc nhở sâu sắc về thiên chức làm con của đối với người cha người mẹ đã sinh thành ra mình.
Mẫu số 2:
Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?
Bài thơ trên là lời than thở của một người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ. Họ được so sánh với những con cò trắng, cuộc đời là những khó khăn, bấp bênh, gian khổ. Không có ngày nào họ có thể yên nghỉ và tận hưởng. Hạc thân hình mảnh khảnh, yếu ớt nhưng làm việc nặng nhọc, vất vả. Là một người nông dân ốm yếu, nghèo khổ, hàng ngày họ đi làm thuê, bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Thật thảm hại và cay đắng làm sao. Biết là khổ, khó, khổ nhưng những người nông dân này không biết phải làm sao. Bởi vì ở một địa vị thấp hèn như vậy, làm sao bạn có thể chống lại những kẻ xấu xa, độc ác, vô độ? Họ còn không gọi được tên những người đó, mà dám dùng đại từ thông tục “ai” để gọi. “Con cò” cuối bài thơ khiến người đọc ám ảnh về số phận éo le của thế hệ cũ. Bài thơ có nhịp điệu khoan thai của một khúc hát ru và nhiều điệp ngữ gợi tình thương, cảm thương cho cảnh ngộ khốn khó của người nông dân. Hình ảnh “thân cò” xuyên suốt bài thơ đã ăn sâu vào tâm thức người đọc không khỏi thương cảm cho những số phận bất hạnh, éo le của họ.
3. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát siêu hay:
Mẫu số 1:
Con người có cố, có ông,
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Đây là một trong những bài thơ lục bát về tình cảm gia đình hay nhất. Ca dao nói về lòng biết ơn của con cháu với tổ tiên. Nhắc nhở chúng ta phải biết ơn tổ tiên và những người xưa. Hình ảnh so sánh con người như cây cối, như dòng sông. Cây cối có rễ có nguồn gốc để từ đó chúng bắt đầu phát triển và sinh sản. Con người cũng vậy, nhờ có ông bà, tổ tiên mà chúng ta được như ngày hôm nay. Ca dao sử dụng thể thơ lục bát quen thuộc, diễn đạt giản dị, rõ ràng nhằm nhắc nhở con cháu phải biết ơn tổ tiên, không được vô ơn bạc nghĩa. Hình ảnh thơ quen thuộc, giản dị gợi cho ta nhớ đến công ơn của các thế hệ đi trước. Như vậy ca dao thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với ông bà, tổ tiên và các thế hệ đi trước.
Mẫu số 2:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ Xương.
Mịt mờ khói toả ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”
Bài ca dao để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp của cảnh sắc Hồ Tây. Nhà văn nổi tiếng đã vẽ một bức tranh đầy thơ ca và ca từ. Thiên nhiên Hồ Tây sinh động và thơ mộng. Bầu trời mùa thu trong và rộng. Gió nhẹ đung đưa cành trúc. Tiếng chuông ngân và tiếng gà gáy đánh thức cuộc sống sôi động. Thêm vào đó, một làn sương mờ ảo bao phủ càng làm cho khung cảnh thêm phần thơ mộng. Nhịp trống rộn rã của chiếc dùi đã gợi lên nét đẹp truyền thống của người Thăng Long xưa trong nghề làm giấy ở làng Yên Thái. Cuối cùng, vẻ đẹp của mặt hồ Tây ẩn hiện trong sương mù bỗng hiện ra như một tấm gương sáng lấp lánh dưới nắng mai. Những âm thanh nhịp nhàng của tiếng chuông báo giờ, tiếng gà gáy và tiếng gõ giấy inh ỏi cũng là dấu hiệu của một ngày mới bắt đầu. Cuộc sống đang trỗi dậy ở khắp mọi nơi. Đoạn thơ giúp người đọc thêm yêu vẻ đẹp của đất Thăng Long.
4. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát siêu ngắn:
Mẫu số 1:
Bảo vâng, gọi dạ, con ơi,
Vâng lời sau trước, con thời chớ quên.
Công cha, nghĩa mẹ, khôn đền,
Vào thưa, ra gửi, mới nên con người.
Đây là một bài ca dao mà tôi rất yêu thích. Thể thơ ngắt nhịp ngắn, thể văn xuôi có vần điệu đặc trưng của ca dao. Cả bài thơ như lời dặn dò dịu dàng của cha mẹ dành cho con cái. Những lời này nhắc nhở con cái biết yêu thương, kính trọng và hiếu kính cha mẹ. Công ơn cha mẹ lớn hơn mây trời, không gì sánh bằng. Vì vậy, con cái phải học cách yêu thương cha mẹ nhiều hơn. Những cảm giác quen thuộc này khiến tôi cảm nhận rõ hơn tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của bố mẹ dành cho mình. Và hiểu hơn về trách nhiệm của một người con.
Mẫu số 2:
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Hình như ai cũng biết và nhớ những câu lục bát này. Hình ảnh bông sen trắng tinh khiết, trong sáng luôn khắc sâu trong tâm trí mỗi người. Ngay khổ thơ đầu, tác giả dân gian đã khẳng định thân phận của bông sen bên đầm là “khó dung hòa”. Hình ảnh hoa sen được thể hiện từ bên ngoài với 3 màu xanh, trắng và vàng lần lượt từ lá, cánh cho đến nhị. Tất cả đều là những màu sắc tươi sáng, rực rỡ. Đặc biệt ở câu thơ thứ ba, những chi tiết này lại được lặp lại nhưng theo thứ tự ngược lại. Cảm nhận người đọc, dường như được nghiên cứu, tìm hiểu kỹ càng, từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài. Rồi chắc chắn rằng bạn khẳng định: “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Loài hoa này, không chỉ đẹp mà còn thanh khiết, dù sống trong bùn nhơ vẫn thơm ngát, thanh khiết. Là con người, họ giữ nguyên vẹn sự ngây thơ và lòng trung thành của mình cho dù hoàn cảnh có khó khăn hay khắc nghiệt đến đâu. Phẩm chất cao quý, đáng trân trọng ấy của người Việt Nam đã được tác giả dân gian thể hiện một cách tài tình qua hình ảnh bông hoa sen trong câu ca dao trên.
5. Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc của em về một bài thơ lục bát siêu dễ nhớ:
Mẫu số 1:
“Đường lên xứ Lạng bao xa?
Cách một trái núi với ba quãng đồng.
Ai ơi đứng lại mà trông:
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ”
Đến với câu ca dao trên, người đọc có ấn tượng sâu sắc về xứ Lạng. Bài thơ mở đầu bằng câu hỏi “Đường lên xứ Lạng bao xa?” nhưng nó giống như một gợi ý. Tôi cứ ngỡ đường đến xứ Lạng không xa. Nhưng “cách một trái núi với ba quãng đồng” cho thấy sự xa xôi, hẻo lánh của xứ sở này. Từ đó ta thấy được sự hùng vĩ và tầm cỡ của cả xứ Lạng. Những địa danh núi thành Lạng, những sông Tam Cờ à những địa danh nổi tiếng trên mảnh đất quê hương này. Đọc câu ca dao này ta càng thêm yêu thiên nhiên xứ Lạng.
Mẫu số 2:
Tôi rất thích câu thơ lục bát :
“.Nói lời phải giữ lấy lời
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.“
Tôi rất tâm đắc với hình ảnh so sánh lời nói và con bướm. Một nhà văn dân gian đã trích dẫn hình ảnh một con bướm bay lượn, hạ cánh rồi lại bay đi không dấu vết. Phê phán những người chỉ muốn nói mà không thích giữ lời hứa của mình. Lời nói của họ như cánh bướm, nói ra rồi bay đi, chẳng giữ lại được gì, không làm được điều mình nói. Qua hình ảnh này, ông cha ta đã nhấn mạnh với con cháu bài học về chữ tín, nói được thì phải làm được. Bài học quý giá này được cô đọng trong hai câu thơ từ lục bát vừa dễ nhớ, vừa dễ nghe.