Hiện nay chúng ta cũng rất lo ngại đối với một số loại bệnh như nhiễm khuẩn Helicobacter pylori đây được biết là tình trạng rất phổ biến. Nhiều người không hề biết mình có loại vi khuẩn này trong thời gian dài cho đến khi xuất hiện triệu chứng.
Mục lục bài viết
1. Vi khuẩn HP là gì?
Vi khuẩn Hp Helicobacter pylori) là một loại vi khuẩn dạng trực khuẩn Gram âm, có kích thước siêu vi khoảng 1-5µm. Vi khuẩn Hp thường khu trú trong lớp hang vị, thân vị dạ dày. Để tồn tại được trong môi trường khắc nghiệt – dịch vị dạ dày, vi khuẩn này tiết ra Enzym Urease để trung hòa nồng độ acid trong dạ dày.
Phần lớn những người bị nhiễm H. pylori không có triệu chứng và không phát triển bất kỳ vấn đề sức khỏe nào. Tuy nhiên, vi khuẩn H. pylori có khả năng gây ra một số bệnh đường tiêu hóa, bao gồm viêm loét dạ dày tá tràng và ít phổ biến hơn là ung thư dạ dày.
Theo thống kê, có tới trên 70% dân số Việt Nam Test Hp dương tính . Tuy nhiên, có tới trên 80% người nhiễm vi khuẩn Hp không có triệu chứng cũng như biến chứng. Trên thực tế, các nhà khoa học nhận thấy, trong một số trường hợp, sự có mặt của vi khuẩn Hp giống như một loại vi khuẩn cộng sinh, đôi khi có một số lợi ích nhất định.
Vi khuẩn HP tiếng anh là ” Helicobacter pylori”.
2. Vi khuẩn HP có nguy hiểm không?
2.1. Vi khuẩn Hp gây ra bệnh viêm cấp – mãn tính niêm mạc dạ dày:
Phần lớn người bệnh khi mới nhiễm khuẩn Hp không có triệu chứng. Chỉ có một số ít trường hợp người bệnh trong giai đoạn nhiễm cấp tính có biểu hiện lâm sàng như: chán ăn, đầy bụng, buồn nôn. Trên hình ảnh nội soi cho thấy có thể viêm một phần hoặc toàn bộ niêm mạc dạ dày.
Tình trạng cấp tính có triệu chứng hoặc không có triệu chứng kéo dài sẽ gây viêm niêm mạc mãn tính. Người bệnh bị viêm mãn tính có thể xảy ra 2 tình huống sau:
– Viêm teo tại vùng hang vị dạ dày. Khi này, lượng bài tiết acid tại dạ dày bình thường hoặc cao hơn dẫn tới nguy cơ loét hành tá tràng
– Viêm teo từ hang vị lan lên thận vị dạ dày. Trong trường hợp nặng có thể viêm teo toàn bộ niêm mạc dạ dày. Khi này, lượng bài tiết acid dạ đay giảm gây loét dạ dày và ung thư dạ dày.
Tuy nhiên, viêm mạn tính niêm mạc dạ dày không chỉ do vi khuẩn Hp gây ra mà còn do nhiều nguyên nhân khác như viêm niêm mạc dạ dày tự miễn,…
2.2. Vi khuẩn Hp gây ra bệnh loét dạ dày, tá tràng:
Loét dạ dày – tá tràng là tình tổn thương dẫn đến viêm sưng và hình thành những vết loét trong niêm mạc dạ dày hoặc tá tràng. Vi khuẩn Hp là một trong những tác nhân chính gây nên bệnh lý này.
Sau khi xâm nhập, vi khuẩn Hp sẽ sinh sống và phát triển tại lớp nhầy niêm mạc dạ dày. Chúng tiết ra các độc tố làm mất chức năng chống lại acid của niêm mạc. Lâu ngày sẽ dẫn đến hiện tượng viêm và loét dạ dày, tá tràng.
– Loét dạ dày thường gặp ở người ngoài 40 tuổi. Vị trí ổ loét hay gặp ở phía bờ cong nhỏ, đặc biệt là vùng tiếp nối giữa hang vị và thân vị.
– Loét tá tràng thường gặp ở người trong độ tuổi từ 20-50 tuổi. Vị trí ổ loét chủ yếu tại phần đầu tá tràng (hành tá tràng).
Loét dạ dày – tá tràng gây biến chứng chảy máu và có thể tái phát nhiều lần. Nếu tình trạng loét kéo dài có thể gây thủng dạ dày, tá tràng và kéo theo nhiều biến chứng nguy hiểm khác.
2.3. Vi khuẩn Hp gây ra bệnh ung thư dạ dày:
Theo thống kê, có khoảng 1% tỷ lệ người Test Hp dương tính tiến triển thành ung thư dạ dày. Nhiễm khuẩn Hp gây viêm mãn tính tại niêm mạc dạ dày. Người bệnh bị viêm mãn tính kéo dài hình thành lên các tổ chức viêm xơ hay còn gọi là viêm teo. Niêm mạc bình thường được thay thế bằng biểu mô niêm mạc ruột hay còn được gọi là dị sản ruột. Chính tình trạng viêm teo mãn tính nặng và dị sản ruột dẫn tới ung thư dạ dày.
Tuy nhiên, việc điều trị vi khuẩn Hp chỉ làm giảm nguy cơ ung thư dạ dày nhưng không làm mất hoàn toàn nguy cơ gây ung thư. Vì vậy, người bệnh nhiễm Hp có viêm teo hoặc dị sản ruột cần soi dạ dày theo dõi định kỳ để tầm soát ung thư.
2.4. Một số bệnh lý khác:
U lympho B lớp niêm mạc dạ dày: nhiễm khuẩn Hp có thể gây ra ung thư lympho bào B tại biểu mô niêm mạc dạ dày. Khoảng 60-80% các trường hợp ung thư loại này sẽ thoái triển và khỏi hoàn toàn sau diệt H.P.
Chứng khó tiêu chức năng: đây là bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra với các triệu biểu hiện: đau vùng thượng vị, ăn nhanh no, đầy trướng vùng thượng vị,… Trong một số người bệnh bị chứng khó tiêu chức năng có nhiễm khuẩn Hp, các triệu chứng có thể giảm sau khi diệt Hp. Tuy nhiên, tỷ lệ giảm triệu chứng này không cao, chỉ khoảng 8% trong tổng số trường hợp bệnh.
Một số bệnh ngoài đường tiêu hóa: nhiễm vi khuẩn H.P cũng làm tăng xuất hiện một bệnh như: đau nửa đầu, bệnh lý mạch vành, giảm tiểu cầu chưa rõ nguyên nhân…
3. Dấu hiệu và cách điều trị:
Con đường lây nhiễm H.p chủ yếu là từ miệng của người này sang người khác. H.p cũng có thể lây lan theo đường phân miệng, thường xảy ra khi người bệnh không rửa tay kỹ sau khi đi vệ sinh. Một khả năng khác là H. pylori lây lan khi tiêu thụ thực phẩm hoặc nước bị nhiễm khuẩn.
H. pylori gây ra những thay đổi đối với dạ dày và tá tràng. Vi khuẩn lây nhiễm sang các mô bảo vệ lót dạ dày, dẫn đến việc giải phóng một số enzyme, chất độc và kích hoạt hệ thống miễn dịch. Kết hợp với nhau, những yếu tố này có thể trực tiếp hoặc gián tiếp làm tổn thương các tế bào của dạ dày hoặc tá tràng. Điều này gây ra tình trạng viêm mãn tính ở thành dạ dày (viêm dạ dày) hoặc tá tràng (viêm tá tràng). Kết quả của những thay đổi này là dạ dày và tá tràng dễ bị tổn thương hơn bởi các dịch tiêu hóa, chẳng hạn như axit dạ dày.
H. pylori có thể lây nhiễm vào dạ dày người bệnh trong thời thơ ấu. Ở Mỹ hay các quốc gia phát triển khác, trẻ em bị nhiễm H.p không phổ biến. Tuy nhiên, ở các quốc gia có nguồn lực hạn chế, hầu hết trẻ em bị nhiễm H. pylori trước 10 tuổi.
Mặc dù có khoảng trên 70% dân số nhiễm vi khuẩn Hp, nhưng chỉ có từ 10-20% trường hợp bệnh có khả năng bị loét dạ dày – tá tràng và 1% nguy cơ ung thư dạ dày. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, những trường hợp nhiễm Hp dưới đây cần phải điều trị:
– Người bị loét dạ dày, loét hành tá tràng hoặc có tiền sử viêm loét dạ dày – tá tràng.
– Người mắc chứng khó tiêu: ăn nhanh no, đầy bụng sau ăn, nóng rát vùng thượng vị, đau vùng thượng vị,…
– Người bị thiếu máu, thiếu sắt.
– Người bị xuất huyết giảm tiểu cầu không rõ nguyên nhân.
– Người bị ung thư dạ dày muộn đã phẫu thuật.
– Người bị ung thư dạ dày sớm được cắt hớt hoặc cắt tắc niêm mạc qua nội soi.
– Người có khối u dạ dày: polyp tăng sản, adenoma hoặc đã cắt hớt niêm mạc…
– Người bị viêm teo toàn bộ niêm mạc dạ dày.
– Người làm việc trong môi trường có nguy cơ ung thư dạ dày: khai thác quặng, than,…
– Người có bố, mẹ hoặc anh chị em ruột bị ung thư dạ dày. Người quá lo lắng về nhiễm khuẩn Hp thì có thể cân nhắc diệt vi khuẩn Hp.
Mặc dù vi khuẩn Hp là nguyên nhân chính gây viêm loét dạ dày, tá tràng và ung thư dạ dày. Tuy nhiên, không phải tất cả người Test Hp dương tính đều bị bệnh. Vì vậy, cần điều trị diệt Hp theo đúng chỉ định để tránh gây lãng phí và tránh xảy ra tình trạng kháng thuốc kháng sinh chéo.
Việc chẩn đoán và điều trị càng sớm giúp nâng cao khả năng chữa khỏi và rút ngắn thời gian chữa bệnh. Thông thường, vi khuẩn Hp được điều trị bằng cách kết hợp 2 loại kháng sinh cùng lúc để tối ưu hóa kết quả cuối cùng. Một loại thuốc có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn và loại thuốc còn lại để ức chế tiết acid giúp niêm mạc dạ dày có thời gian lành lại.
Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ kháng thuốc của vi khuẩn Hp ngày càng cao, nên người bệnh cần tuân thủ đúng theo phác đồ điều trị của bác sĩ. Tuyệt đối không được tự ý bỏ thuốc, thay đổi liều dùng hoặc tự ý mua thuốc về sử dụng. Bên cạnh đó, chế độ ăn uống nhiều chất xơ, rau củ quả và uống nhiều nước sẽ giúp người bệnh tăng tính kiềm trong dạ dày. Từ đó vi khuẩn Hp sẽ không còn môi trường thuận lợi để phát triển và sẽ bị diệt theo thời gian. Người bệnh cũng cần hạn chế ăn đồ chua, cay, nóng, uống rượu bia, thức khuya hay stress để tránh làm bệnh tình tiến triển nặng hơn.
Hiểu biết được vi khuẩn Hp gây ra bệnh như thế nào sẽ giúp người bệnh chủ động hơn trong việc theo dõi sức khoẻ, thăm khám và điều trị. Việc điều trị nhiễm khuẩn Hp cần được thực hiện theo phác đồ của bác sĩ chuyên môn. Kết hợp với chế độ ăn và lối sống khoa học, lành mạnh sẽ giúp người bệnh nhanh chóng đẩy lùi được bệnh.