Vành đai Thái Bình Dương trong kinh tế đề cập đến khu vực địa lý bao quanh Thái Bình Dương. Nội dung về vành đai TBD?
Các vành đai Thái Bình Dương bao gồm các vùng đất xung quanh mép của Thái Bình Dương. Các lưu vực Thái Bình Dương bao gồm các Rim Thái Bình Dương và các đảo ở Thái Bình Dương . Vành đai Thái Bình Dương gần như trùng lặp với Vành đai lửa Thái Bình Dương về địa chất. Vành đai Thái Bình Dương đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế của các nước lân cận.
Mục lục bài viết
1. Vành đai Thái Bình Dương trong kinh tế là gì?
– Vành đai Thái Bình Dương (Pacific rim) đề cập đến khu vực địa lý bao quanh Thái Bình Dương. Vành đai Thái Bình Dương bao gồm các bờ biển phía tây của Bắc Mỹ và Nam Mỹ, và các bờ biển của Australia, phía đông châu Á và các đảo ở Thái Bình Dương. Phần lớn hoạt động vận chuyển của thế giới đi qua khu vực Thái Bình Dương, đặc biệt là giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Nhiều quốc gia ở Vành đai Thái Bình Dương đã nhanh chóng hiện đại hóa nền kinh tế của họ trong những thập kỷ gần đây, lấy biệt danh là Con hổ châu Á , hoặc Con rồng châu Á (Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan) và Tiger Cubs (Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam ). Khu vực này bao gồm các phần của Bắc và Nam Mỹ nhưng thường liên kết với Trung Quốc, Úc và Hàn Quốc. Phần lớn vận tải biển của thế giới đi qua khu vực cụ thể này, đặc biệt, hàng hóa được vận chuyển giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
– “Vành đai Thái Bình Dương” là mô tả của một khu vực, không phải một nhóm hoặc tổ chức. Thái Bình Dương là đại dương lớn nhất thế giới, do đó có rất nhiều quốc gia giáp ranh với nó và do đó nó có thể được coi là một phần của khu vực. Trong số các quốc gia và nền kinh tế lớn nhất và nổi tiếng nhất ở Vành đai Thái Bình Dương là Trung Quốc, Úc và Hàn Quốc. Hoa Kỳ, Canada và Mexico đều có đường bờ biển Thái Bình Dương và do đó có thể được coi là một phần của khu vực.
– ” Những con hổ châu Á ” là một nhóm các nền kinh tế phát triển đều đã có mức tăng trưởng kinh tế cao kể từ những năm 1960 nhờ xuất khẩu của họ. Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan đều là các nền kinh tế thị trường tự do và đã thành công với xuất khẩu điện tử và công nghệ. Hong Kong và Singapore cũng là những trung tâm tài chính lớn. Bốn con hổ được coi là nguồn cảm hứng cho Tiger Cubs, vốn là những nền kinh tế kém tiên tiến nhưng đang phát triển nhanh chóng. Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan đều đang chuyển từ các mặt hàng xuất khẩu có tỷ suất lợi nhuận thấp như dệt may sang hàng điện tử có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Trong những năm kể từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997, khu vực này đã phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.
2. Nội dung về vành đai Thái Bình Dương:
– Cuộc khủng hoảng thị trường tài chính châu Á năm 1997 được kích hoạt bởi sự mất giá của đồng baht Thái Lan sau khi nền kinh tế quá nóng sụp đổ, đặc biệt là thị trường bất động sản có tính đầu cơ cao . Ngân hàng trung ương đã phá giá tiền tệ vào ngày 1 tháng 7 năm 1997, sau nhiều lần phủ nhận rằng họ sẽ làm như vậy. Cho vay vào khu vực cạn kiệt, và các nhà đầu tư nhanh chóng rút tiền của họ. Sự mất giá đồng thời xảy ra với việc Vương quốc Anh trao trả Hồng Kông theo lịch trình từ lâu cho sự cai trị của Trung Quốc sau 155 năm là một phần của Đế chế Anh. Sự không chắc chắn của người tham gia đã giúp thúc đẩy cuộc khủng hoảng. Các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bao gồm Indonesia, Philippines, Malaysia, Hàn Quốc và Hồng Kông.
– Tuy nhiên, ngay trong năm đầu tiên cầm quyền, Trump đã rút Hoa Kỳ khỏi TPP, và hiệp định này đã bị giải thể. Các nước còn lại đã đàm phán một hiệp định thương mại mới có tên là Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương Toàn diện và Tiến bộ, bao gồm nhiều điều khoản của TPP và nó đã được phê chuẩn vào tháng 12 năm 2018. Vành đai Thái Bình Dương là một thuật ngữ địa lý dùng để mô tả vùng đất nằm dọc theo vành đai Thái Bình Dương. Vành đai Thái Bình Dương chồng lên Vành đai lửa Thái Bình Dương – một khu vực ở Thái Bình Dương nơi xảy ra các vụ phun trào núi lửa và động đất.
– Vành đai Thái Bình Dương cũng là một phần của Lưu vực Thái Bình Dương, bao gồm tất cả các vùng đất trong Vành đai Thái Bình Dương và tất cả các đảo ở Thái Bình Dương. Có nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ được chỉ định là một phần của Vành đai Thái Bình Dương. Ở Châu Đại Dương, các quốc gia bao gồm:
+ Châu Úc
+ Fiji
+ Kiribati
+ Quần đảo Marshall, Micronesia
+ Nauru, New Zealand
+ Palau, Papua New Guinea
+ Samoa, Quần đảo Solomon
+ Tonga, Tuvalu
+ Vanuatu
– Ở Bắc Mỹ, các quốc gia là một phần của Vành đai Thái Bình Dương là:
+ Canada
+ Mexico
+ Hoa Kỳ
– Ở Trung Mỹ, các quốc gia này là một phần của Vành đai Thái Bình Dương:
+ Costa Rica
+ El Salvador
+ Guatemala
+ Honduras
+ Nicaragua
+ Panama
– Ở Nam Mỹ, các quốc gia này là một phần của khu vực địa lý này:
+ Chile, Colombia
+ Ecuador
+ Peru
– Ở Châu Á, các quốc gia sau được coi là một phần của Vành đai Thái Bình Dương:
+ Trung Quốc
+ Indonesia
+ Nhật Bản
+ Malaysia
+ Bắc Triều Tiên
+ Phi-líp-pin
+ Nga
+ Singapore, Hàn Quốc
+ Đài loan
+ Việt Nam
– Ngoài các quốc gia được liệt kê ở trên, các lãnh thổ phụ thuộc sau đây cũng là một phần của Vành đai Thái Bình Dương:
+ American Samoa
+ Đảo Christmas, Quần đảo Cocos, Quần đảo Cook
+ Đảo Phục Sinh
+ Polynesia thuộc Pháp
+ Guam
+ New Caledonia, Niue, Đảo Norfolk, Quần đảo Bắc Mariana
+ Quần đảo Pitcairn
+ Tokelau
+ Wallis và Futuna
– Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) là một nhóm kinh tế gồm 21 thành viên, được thành lập năm 1989, với mục tiêu chính là thúc đẩy thương mại tự do và phát triển bền vững ở các nền kinh tế Vành đai Thái Bình Dương . APEC bao gồm các quốc gia, trong đó có Mỹ, thúc đẩy thương mại tự do và phát triển bền vững ở các nền kinh tế Vành đai Thái Bình Dương. APEC tham gia vào nhiều nguyên nhân vi mô, chẳng hạn như quyền sở hữu trí tuệ và chuẩn bị cho tình huống khẩn cấp, và có nhiều nhóm phụ nhằm mục đích thúc đẩy chính sách và nhận thức. APEC là nền tảng cơ bản trong việc giảm thuế quan, nâng cao hiệu quả hải quan và thu hẹp khoảng cách giữa các nền kinh tế đang phát triển và phát triển.
– Mục tiêu chính của APEC là đảm bảo hàng hóa, dịch vụ, vốn và lao động có thể di chuyển dễ dàng qua biên giới. Điều này bao gồm việc tăng cường hiệu quả tùy chỉnh tại biên giới, khuyến khích các điều kiện kinh doanh thuận lợi trong các nền kinh tế thành viên và hài hòa các quy định và chính sách trong toàn khu vực. Sự ra đời của APEC chủ yếu nhằm đáp ứng sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng của các nền kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương. Sự hình thành của APEC là một phần của sự gia tăng các khối kinh tế khu vực vào cuối thế kỷ 20, chẳng hạn như Liên minh châu Âu(EU) và Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) (nay đã không còn tồn tại ).
– Các thành viên sáng lập của APEC là Úc, Brunei, Canada, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, New Zealand, Philippines, Singapore, Thái Lan và Mỹ. Kể từ khi ra mắt, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Mexico, Papua New Guinea, Chile, Peru, Nga và Việt Nam đã gia nhập hàng ngũ của mình. 1
– APEC coi các thành viên là các nền kinh tế chứ không phải là các quốc gia do tập trung vào các vấn đề kinh tế và thương mại hơn là các vấn đề ngoại giao đôi khi tế nhị của khu vực, bao gồm tình trạng của Đài Loan và Hồng Kông. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) từ chối công nhận Đài Loan vì nước này tuyên bố hòn đảo này là một tỉnh theo hiến pháp của mình. Trong khi đó, Hồng Kông hoạt động như các khu vực bán tự trị của Trung Quốc và không phải là một quốc gia có chủ quyền. Các quan sát viên chính thức của APEC bao gồm Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á(ASEAN), Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC) và Diễn đàn Các đảo Thái Bình Dương (PIF).
– Năm 1995, APEC đã thông qua Chương trình hành động Osaka, một chương trình được thiết kế nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh, tự do hóa thương mại và đầu tư cũng như thúc đẩy hợp tác kinh tế và kỹ thuật. 4 Tuy nhiên, tiến độ của những nỗ lực này đã phần nào bị chậm lại, do văn hóa của APEC là đưa ra mọi quyết định bằng sự đồng thuận. Trong khi một số quyết định được nhất trí, chúng không ràng buộc về mặt pháp lý đối với các chính phủ thành viên.
– Các tiểu nhóm của APEC: APEC duy trì một đơn vị hỗ trợ chính sách để cung cấp các nghiên cứu và phân tích nhằm hỗ trợ các mục tiêu của tổ chức đối với khu vực, cũng như các nhóm công tác đặc biệt nhằm khám phá và thúc đẩy các vấn đề và thành phần khác nhau của phát triển kinh tế. 5 Các nhóm này tham gia vào nhiều nguyên nhân vi mô nhằm mục đích thúc đẩy chính sách và nhận thức. Ví dụ về các nhóm phụ này bao gồm:
+ Các vấn đề về giới : APEC tài trợ cho quan hệ đối tác chính sách về phụ nữ và nền kinh tế nhằm thúc đẩy sự hội nhập kinh tế của phụ nữ. Ước tính có khoảng 600 triệu phụ nữ hiện đang tham gia lực lượng lao động của khu vực.
+ Quyền sở hữu trí tuệ : Nhóm chuyên gia về quyền sở hữu trí tuệ (IPEG) của APEC nghiên cứu và trao đổi thông tin liên quan đến việc thực thi các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong khu vực. Nó thúc đẩy và tạo điều kiện hợp tác để thực hiện Hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS).
+ Chuẩn bị Khẩn cấp : Nhóm Công tác Chuẩn bị Khẩn cấp (EPWG) của APEC thúc đẩy khả năng phục hồi của doanh nghiệp, quan hệ đối tác công tư và chia sẻ thông tin giữa các thành viên để giúp xây dựng năng lực của khu vực trong việc đối phó với các trường hợp khẩn cấp và thiên tai. Các nền kinh tế dọc theo Vành đai Thái Bình Dương hoạt động về mặt địa chất và khí hậu là đối tượng của các sự kiện như sóng thần, bão, động đất và phun trào núi lửa.