Vận tốc của tiền tệ được hiểu là một phép đo tốc độ mà tiền được trao đổi trong một nền kinh tế. Ứng dụng trong nền kinh tế thị trường?
Vận tốc của tiền là tốc độ mà mọi người chi tiêu tiền mặt. Hãy nghĩ về nó như cách mỗi đô la hoạt động khó khăn như thế nào để tăng sản lượng kinh tế. Khi vận tốc của tiền cao, có nghĩa là mỗi đô la đang chuyển động nhanh để mua hàng hóa và dịch vụ. Nó phản ánh nhu cầu cao, tạo ra nhiều sản xuất hơn. Khi tốc độ thấp, mỗi đô la không được sử dụng thường xuyên để mua đồ. Thay vào đó, nó được sử dụng để đầu tư và tiết kiệm. Nhu cầu thấp này không tạo ra nhiều sản xuất.
1. Vận tốc của tiền tệ là gì?
– Vận tốc của tiền tệ (Velocity of Money) được hiểu là một phép đo tốc độ mà tiền được trao đổi trong một nền kinh tế. Đó là số lần tiền di chuyển từ thực thể này sang thực thể khác. Vận tốc của tiền tệ cũng đề cập đến số lượng một đơn vị tiền tệ được sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
Vận tốc của tiền cung cấp một quan điểm khác về cầu tiền . Với luồng giao dịch danh nghĩa sử dụng tiền, nếu lãi suất đối với các tài sản tài chính thay thế cao, mọi người sẽ không muốn giữ nhiều tiền so với số lượng giao dịch của họ, họ cố gắng đổi nhanh lấy hàng hóa hoặc các tài sản tài chính khác, và tiền được cho là “đốt một lỗ trong túi của họ” và tốc độ cao. Tình hình này chính xác là một trong những nhu cầu về tiền thấp. Ngược lại, với tốc độ chi phí cơ hội thấp là thấp và cầu tiền cao. Cả hai tình huống đều góp phần vào tính chất thay đổi theo thời gian của nhu cầu tiền tệ. Ở trạng thái cân bằng thị trường tiền tệ, một số biến số kinh tế (lãi suất, thu nhập, hoặc mức giá) đã điều chỉnh để cân bằng giữa cầu tiền và cung tiền. Mối quan hệ định lượng giữa vận tốc và cầu tiền được cho bởi Vận tốc = Giao dịch danh nghĩa (tuy nhiên được xác định) chia cho Cầu tiền danh nghĩa. Tốc độ chuyển tiền cao thường gắn liền với một nền kinh tế phát triển, lành mạnh. Vận tốc tiền thấp thường liên quan đến suy thoái và co thắt.
– Các nhà kinh tế học sử dụng vận tốc của tiền để đo tốc độ mà tiền được sử dụng cho hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Mặc dù nó không nhất thiết phải là một chỉ số kinh tế chính, nhưng nó có thể được theo sau cùng với các chỉ số chính khác giúp xác định sức khỏe kinh tế như GDP, thất nghiệp và lạm phát. GDP và cung tiền là hai thành phần của công thức vận tốc tiền tệ.
Các nền kinh tế thể hiện tốc độ chuyển tiền cao hơn so với các nền kinh tế khác có xu hướng phát triển hơn. Vận tốc của tiền cũng được biết là dao động theo chu kỳ kinh doanh. Khi nền kinh tế đang trong giai đoạn mở rộng, người tiêu dùng và các doanh nghiệp có xu hướng chi tiêu tiền bạc dễ dàng hơn khiến cho tốc độ lưu chuyển của tiền tăng lên. Khi một nền kinh tế đang co lại, người tiêu dùng và doanh nghiệp thường miễn cưỡng chi tiêu hơn và tốc độ vận chuyển của tiền thấp hơn.
2. Ứng dụng trong nền kinh tế thị trường:
– Trong nền kinh tế này, vận tốc của tiền sẽ là hai (2) kết quả từ 400 đô la trong giao dịch chia cho 200 đô la trong cung tiền. Sự nhân lên trong giá trị hàng hóa và dịch vụ được trao đổi này được thực hiện thông qua vận tốc của tiền trong nền kinh tế.
– Công thức vận tốc của tiền : Trong khi phần trên cung cấp một ví dụ đơn giản về vận tốc của tiền, vận tốc của tiền được sử dụng ở quy mô lớn hơn nhiều như một thước đo hoạt động giao dịch cho toàn bộ dân số của một quốc gia. Nói chung, thước đo này có thể được coi là vòng quay của cung tiền cho toàn bộ nền kinh tế. Đối với ứng dụng này, các nhà kinh tế thường sử dụng GDP và M1 hoặc M2 cho lượng cung tiền. Do đó, phương trình vận tốc của tiền được viết dưới dạng GDP chia cho cung tiền.
Vận tốc của tiền = GDP ÷ Cung tiền
– GDP thường được sử dụng làm tử số trong công thức tính vận tốc của tiền mặc dù tổng sản phẩm quốc dân (GNP) cũng có thể được sử dụng. GDP thể hiện tổng lượng hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế có thể mua được. Trong mẫu số, các nhà kinh tế thường xác định vận tốc tiền tệ cho cả M1 và M2.
– M1 được Cục Dự trữ Liên bang định nghĩa là tổng của tất cả các loại tiền tệ mà công chúng nắm giữ và các khoản tiền gửi giao dịch tại các tổ chức lưu ký. M2 là một thước đo cung tiền rộng hơn, bổ sung thêm tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn và quỹ tương hỗ trên thị trường tiền tệ thực tế. 1 Ngoài ra, Cục Dự trữ Liên bang St. Louis theo dõi tốc độ hàng quý của tiền bằng cả M1 và M2.
– Vận tốc của tiền và nền kinh tế:
+ Hiện nay, có những quan điểm khác nhau giữa các nhà kinh tế về việc liệu vận tốc của tiền có phải là một chỉ báo hữu ích về sức khỏe của nền kinh tế hay cụ thể hơn là áp lực lạm phát. Các “nhà tiền tệ học”, những người ủng hộ lý thuyết số lượng tiền cho rằng vận tốc tiền tệ nên ổn định nếu không có sự thay đổi kỳ vọng, nhưng sự thay đổi trong cung tiền có thể làm thay đổi kỳ vọng, do đó vận tốc tiền tệ và lạm phát.
– Ví dụ, sự gia tăng cung tiền về mặt lý thuyết sẽ dẫn đến sự tăng giá tương xứng vì có nhiều tiền hơn theo đuổi cùng mức hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Điều ngược lại sẽ xảy ra với cung tiền giảm. Mặt khác, các nhà phê bình cho rằng trong ngắn hạn , vận tốc của tiền rất thay đổi và giá cả có khả năng chống lại sự thay đổi, dẫn đến mối liên hệ gián tiếp và yếu giữa cung tiền và lạm phát.
– Tốc độ tiền tệ dường như đã chạm đáy ở mức 1.435 trong quý 2 năm 2017 và đang dần tăng lên cho đến khi cuộc suy thoái toàn cầu gây ra bởi đại dịch COVID-19 thúc đẩy kích thích kinh tế lớn của Liên bang Hoa Kỳ. Vào cuối quý 2 năm 2020, M2V là 1.100, tốc độ đọc tiền M2 thấp nhất trong lịch sử.
– Vận tốc của tiền ước tính sự di chuyển của tiền trong một nền kinh tế – nói cách khác, số lần trung bình đồng đô la thay đổi trong một năm. Tốc độ chuyển tiền cao cho thấy một nền kinh tế nhộn nhịp với hoạt động kinh tế mạnh mẽ, trong khi tốc độ thấp cho thấy sự miễn cưỡng tiêu tiền nói chung.