Tính tất yếu khách quan của việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội? Tiền đề khách quan, chủ quan để Việt Nam bỏ qua tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội? Nhiệm vụ của Việt Nam khi bỏ qua Tư bản chủ nghĩa? Mục tiêu và phương hướng cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam?
Ngay khi ra đời, Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là đường lối tiến hành cách mạng nhất quán suốt hơn 73 năm qua của Đảng ta. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là qua thực tiễn của gần 17 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã không ngừng đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tại Đại hội IX – Đại hội đầu tiên trong thế kỷ XXI, dựa trên tổng kết lý luận và thực tiễn sau 15 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Đảng ta, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là con đường phát triển rút ngắn và phương thức thực hiện con đường này là quá độ gián tiếp. Đó là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Hiện nay, vấn đề nhận thức về sự lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, kiên trì phấn đấu theo lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội của các tầng lớp nhân dân còn chưa được đầy đủ. Vấn đề này cũng đang được Đảng và nhà nước ta quan tâm. Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam đó là sự phát triển tất yếu ở Việt Nam, được Đảng và Hồ Chủ Tịch vạch ra từ năm 1930 (trong Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt trong luận cương chính trị của Đảng ) và ngày càng hoàn thiện hơn trong các ký Đại hội Đảng gần đây. Vì vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước hiện nay, việc thức về tính tất yếu con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mang tính cấp thiết
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, với bài tập học kỳ môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, em xin chọn đề tài “Vấn đề “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” với mong muốn được hiểu cũng như làm rõ hơn về vấn đề này. Sau đây là toàn bộ nội dung chính trong bài làm của em.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Mục lục bài viết
1. Tính tất yếu khách quan của việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
a. Quá độ là gì?
Quá độ là thời kỳ chuyển tiếp từ trạng thái này sang trạng thái khác, nhưng đang ở giai đoạn trung gian. Thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ lĩnh vực đời sống xã hội, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền nhà nước cho tới khi tạo ra được những cơ sở của CNXH trên lĩnh vực đời sống xã hội. Có 2 kiểu quá độ tùy thuộc vào điểm đi lên CNXH của các nước:
– Quá độ trực tiếp: Từ TBCN lên XHCN
– Quá độ gián tiếp: Từ xã hội tiền TBCN lên CNXH, bỏ qua TBCN
Đặc điểm của thời kỳ quá độ: Các nhân tố xã hội thời kỳ mới đan xen với thời kỳ chế độ cũ, đồng thời đấu tranh với nhau trên từng lĩnh vực đời sống chính trị, văn hóa, tư tưởng, tập quán.
Đặc điểm cụ thể:
– Chính trị: Bản chất của thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ quá độ chuyển tiếp về mặt chính trị do nhà nứớc chuyên chính vô sản và ngày càng được cũng cố hòan thiện.
– Kinh tế: Đặc trưng của TKQĐ là nền kinh tế nhiều thành phần, tập trung là thành phần kinh tế nhà nứơc. Các thành phần kinh tế vừa hỗ trợ vừa cạnh tranh lẫn nhau.
– Xã hội: Đây là thế mạnh của TKQĐ, đã gần như loại bỏ sự hằn thù của sự đấu tranh giai cấp. Tương ứng với từng lọai thành phần kinh tế có những cơ cấu giai cấp – tầng lớp khác nhau, vừa mang tính đối kháng, vừa hỗ trợ nhau.
– Văn hóa,tư tửởng: Tồn tại nhiều loại tư tưởng, văn hóa tinh thần khác nhau, có xen lẫn sự đối lập nhưng vẫn họat động trên phương châm: ”tốt đạo, đẹp đời “
b. Tính tất yếu chung
Vận dụng lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen vào công cuộc xậy dựng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga trước đây, V.I.Lênin đã phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đối với những nước có lực lượng sản xuất phát triển cao thì thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều thuận lợi hơn, có thể ngắn hơn so với những nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ nền kinh tế kém phát triển.
Theo V.I.Lênin, sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do đặc điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định.
Quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đều dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong lòng xã hội phong kiến. Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đến một trình độ nhất định, sẽ làm sâu sắc them mâu thuẫn của xã hội phong kiến, cách mạng tư sản sẽ nổ ra. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản chủ yếu chỉ là giải quyết về mặt chính quyền nhà nước, làm cho kiếm trúc thượng tầng thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó.
Cách mạng vô sản có điểm khác biệt căn bản với cách mạng tư sản. Do quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, còn quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nên chủ nghĩa xã hội không thể ra đời từ trong lòng xã hội tư sản. Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa ra đời sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp vô sản giành được chính quyền và bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Hơn nữa, sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ lâu dài, không thể ngay một lúc có thể hoàn thiện được. Để phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới, cần phải có thời gian. Nói cách khác, tính tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ sự phân tích như vậy, V.I.Lênin cho rằng cách mạng vô sản thắng lợi mới chỉ là sự khởi đầu cho thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội.
Phân tích bối cảnh hiện thực ở Châu Âu trong nhũng năm 80-90 của thế kỷ XIX ,và triển vọng của cuộc CMXH do giai cấp công nhân và chính đảng CM của nó lãnh đạo, .Engel cho rằng: đã đến lúc chính đảng của giai cấp công nhân phải nắm lấy quyền quản lý đất nước, tiếp thu những thành quả kinh tế, xã hội do giai cấp tư sản tạo ra và lấy đó làm tiền đề vật chất để “tạo lập ra chế độ XH mới cũng như sinh ra những con người mà chỉ có họ mới đủ sức mạnh, ý chí nghị lực, có năng lực sáng tạo lý luận và họat động thực tiễn, luôn nhạy bén với sự biến đổi của hiện thực lịch sử là 1 trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng CM “. Bởi tiếp theo thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản sẽ là một TKQĐ lâu dài, hết sức phức tạp và khó khăn. Coi thời kỳ quá độ này là một cuộc đấu tranh lâu dài ác liệt, Engel cho rằng: “cuộc đấu tranh này chỉ đi đến thắng lợi cuối cùng khi chính đảng Cách mạng của giai cấp công nhân có được đội ngũ những ngừời công nhân sáng suốt về chính trị, kiên trì nhẫn nại nhất trí, có kỉ luật, những phẩm chất mà nhờ đó họ thu được những thành công rực rỡ”.Bời vì họ là những người đang nắm trong tay “tính tất yếu của lịch sử” của cuộc đấu tranh này
c. Tính tất yếu đối với Việt Nam
Như đã biết, xã hội có áp bức ắt hẳn có đấu tranh, và nhân dân ta đã lấy đấu tranh để chống lại áp bức bóc lột của Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, từ ngàn đời khát khao về một xã hội công bằng tốt đẹp thể hiện qua những cuộc đấu tranh chống ngọai xâm và ước mơ giải phóng dân tộc, dân ta phải đấu tranh với kẻ thù đàn áp .Đó là tính tất yếu của xã hội. Nhưng vì sao chúng ta lựa chọn con đường đi lên XHCN, bỏ qua TBCN? Có thể thấy những nhà yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã từng lựa chọn con đường cách mạng tư sản để đấu tranh nhưng không thành công. Điều đó cho thấy con đường đấu tranh bằng cách mạng Tư sản không phù hợp với thực trạng nước ta bấy giờ .
Đến với con đường đấu tranh của HCM, Người đã chọn hình thức đấu tranh vô sản, do giai câp công nhân, nông dân lãnh đạo, và đã giành được thắng lợi thể hiện ở CMT8 thành công, miền Bắc đi lên xây dựng XHCN, cuộc cách mạng này chứng minh sự lựa chọn của Đảng và nhân dân ta là đúng đắn, phù hợp với thực tế VN.
Đồng thời ,theo lý luận của khoa học của Lê Nin thì :
a) CNXH có thể diễn ra ở các nước thuộc địa.
b) Giữa 2 giai đọan của chế độ CNXH ko có vách ngăn phù hợp, vì vậy miền Bắc đi lên CNXH trước miền Nam.
c) “Quá độ bỏ qua” chế độ TBCN trong thời đại hịên nay chỉ là sự vận dụng đúng lịch sử của nhân lọai đã có như Nga Đức Pháp Mỹ… từ chế độ nô lệ bỏ qua chết độ phong kiến lên TBCN
Tóm lại, có thể trả lời câu hỏi:”Vì sao Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua TBCN ?” qua các lý so sau:
-Phù hợp với chí ý nguyện vọng của nhân dân
-Phù hợp với hiện thực Việt Nam
-Phù hợp với cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
Đây chính là cơ sở lý luận mang tính tất yếu của thời kỳ qúa độ lâu dài ở VN. Vậy tính tất yếu của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam là gì?
Đây chính là quy luật phù hợp với sự chuyển đổi đối với các nước đi lên XHCN trong thời đại ngày nay, hay nói cách khác đấy chính là sự phù hợp với lý luận cách mạng ko ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sau cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN ở miền Bắc, nước ta chuyển ngay sang cách mạng XHCN, vừa xây dựng XHCN ở miền Bắc, vừa đấu tranh chống Đế Quốc Mỹ ở miền Nam, đồng thời đấy cũng là sự phù hợp với xu thế của thời đại ngày nay: CNTB với những mâu thuẫn ngày càng gay gắt và sâu sắc chắc chắn sẽ bị thay thế bởi hệ thống XHCN trên phạm vi tòan thế giới. CNTB không phải là tương lai của loài người. Đây là xu hướng khách quan thích hợp với lịch sử.
Đây là sự phù hợp với lịch sử của Việt Nam thể hiện ở sự phù hợp TKQĐ ở nước ta với lý luận chung về tính chất tất yếu của TKQĐ, cụ thể là:
– Nhà nứớc ta đã thực hiện rõ điều này trên quan điểm: ”Bỏ qua CNTB tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN nhưng hấp thu kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới thời TBCN.”
– Đất nước ta còn yếu kém, nhìều tàn dư của chế độ xã hội cũ và chiến tranh để lại. Công cuộc đi lên CNXH là một công việc khó khăn phức tạp do đó cần phải có thời gian để cải tạo xã hội, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần cho CNXH.
– Và sự thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nứoc ta đã có đủ điều kiện quá độ lên TBCN, đó là những điều kịên:
+ Nhân dân đoàn kết tin tưởng vào chế độ XHCN
+ Chính quyền thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng CS
+ Có sự giúp đỡ của các nước tiên tiến, các nước XHCN anh em và phong trào cách mạng tiến bộ của thế giới
Tóm lại, thời kỳ qúa độ lên CNXH bỏ qua thời kỳ TBCN là tính tất yếu, là sự lựa chọn sáng suốt của Đảng và nhân dân ta.
2. Tiền đề khách quan, chủ quan để Việt Nam bỏ qua tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội:
a. Tiền đề khách quan
– Cuộc CM khoa học công nghệ hiên đại đang phát triển, toàn cầu hóa kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, hòa nhập kinh tế thế giới trở thành điều kiện tất yếu, nó mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của nước kém phát triển như: thiếu vốn, công nghiệp lạc hậu, năng lực quản lý kém…
– Thời đại ngày nay, quá độ lên CNXH là xu hướng khách quan của loài người. Đi trong dòng lịch sử, chúng ta đã và đang nhận được sự đồng tình ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của loài người ,của các quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến bộ của mình
b. Tiền đề chủ quan
– Có nguồn lao động dồi dào, cần cù, thông minh, trong đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật cao, lành nghề có hàng chục ngàn người là tiền đề quan trọng để tiếp thu, sử dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trên thế giới.
– Có vị trí tự nhiên thuận lợi :
+ Có bờ biển kéo dài hơn 3.246 km2, có nhiều mỏ dầu khí chưa đựợc khám phá hết, có ngư trường rộng lớn… đó là nhiều ưu đãi của thiên nhiên, tạo điều kiện cho giao lưu hội nhập quốc tế
+ Có hai vựa lúa lớn: Đồng bằng Sông Hồng và Đồng bằng Sông Cửu Long, có các vị trí thuận lợi trồng cây công nghiệp khác như Bình Dương, Đồng Nai…
– Quá độ lên CNXH không những phù hợp với qui luật phát triển của lịch sử mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, những người đã chiến đấu hi sinh thân mình vì độc lập tự do của dân tộc, vì sự ấm no của mọi người, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ văn minh – những yêu cầu ấy chỉ có XHCN mới đáp ứng được
– Xây dựng CNXH dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN, đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đó là nhân tố vô cùng quan trọng giúp giữ gìn sự tồn tại và phát triển của công cuộc xây dựng và phát triển của tổ quốc VN XHCN
3. Nhiệm vụ của Việt Nam khi bỏ qua Tư bản chủ nghĩa:
– Phát triển nhanh mạnh lực lượng sản xuất, nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH, muốn vậy phải phát triển cả lực lượng sản xuất và sức lao động, đặc biệt là sức lao động (nhân tố con người) phải thực hiện Công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) nền kinh tế quốc dân, phải phát triển nhanh nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta.
– Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN.
– Kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo.
– Kinh tế hợp tác xã bao gồm hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ v.v… Kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
– Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến.
– Chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
– Phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.
– Đảng khẳng định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Xây dựng hệ thống chính trị XHCN.
– Xây dựng nhà nước là của dân do dân và vì dân.
– Mọi người sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
– Phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
– Thực hiện dân chủ XHCN. Phát huy khả năng sáng tạo, tính tích cực chủ động của mọi cá nhân.
4. Mục tiêu và phương hướng cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam:
Theo cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã chỉ rõ: xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng là 1 chế độ có 6 đặc trưng cơ bản chính:
1) Do nhân dân lao động làm chủ
2) Có nề kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu
3) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
4) Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển bản thân.
5) Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết cùng giúp nhau tiến bộ
6) Có quan hệ hợp tác hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới,
các đặc trưng trên góp phần hình thành ưu điểm của các nước XHCN, các đặc điểm này ngày càng được hoàn chỉnh, duy trì.
Qua suốt 20 năm đổi mới, hoàn thiện trên con đường đi lên XHCN, Đảng ta đã xác định TKQĐ đất nước còn dài, còn nhiều khó khăn phải đương đầu, nhiều chặn đường phải trải qua.
a. Mục tiêu
Mục tiêu quan trọng của chặng đường đầu là: Đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định và vững chắc, tạo tiền đề cho sự phát triển sau này .
Mục tiêu kế tiếp là đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa nhằm đến năm 2020 nước ta trở thành nước cơ bản công nghiệp hiện đại (tập trung xây dựng đội ngũ kỹ thuật, kỹ sư lành nghề trình độ cao, xây dựng mối quan hệ tổ chức sản xuất hiện đại, quốc phòng được cũng cố…)
b. Phương hướng
– Xây dựng nhà nước XHCN, nhà nước của dân, do dân vì dân, lấy dân là nền tảng họat động, dựa trên cơ cấu thành phần chính là công nhân, nông dân, thành phần tri thức, tất cả do Đảng Cộng sản lãnh đạo .
– Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền móng nông nghiệp toàn diện, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, cải thiện đời sống cá nhân.
– Thiết lập từng bước mối quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đa dạng về hình thức sở hữu và phân phối phát triển thành phần hàng hóa nhìều thành phần vận hành theo nền kinh tế thị trường theo định hứớng XHCN.
– Tiến hành CM XHCN trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
– Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, đòan kết với các phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập của dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Xây dựng XHCN gắn liền với bảo vệ tổ quốc.
– Xây dựng Đảng trong sạch và vững mạnh về chính trị, bồi dưỡng công các chính trị, tư tưởng các cán bộ. Đảm bảo công tác giữ an ninh trật tự xã hội, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp XHCN ở nước ta
Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường phát triển rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp. Đó là con đường phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử – tự nhiên của cách mạng Việt Nam, là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với Việt Nam, con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật. Và, về thực chất, đó là con đường phát triển rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, nhằm phát triển nhanh lực lượng sản xuất và xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó khăn, phức tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”
Trên đây là toàn bộ bài tập học kỳ của em với đề tài “Vấn dề “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Vì đây là một dề tài khá rộng, tổng quát và có thể tiếp xúc từ nhiều khía cạnh mà khuôn khổ bài tập học kỳ lại có hạn nên có thể bài làm của em không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ các thầy, các cô để bài làm được hoàn thiện hơn.