Ước tính đồng thuận là giá trị ước tính cho thu nhập của một công ty đại chúng. Được thể hiện dưới sự phân tích, tính toán của các nhà phân tích. Họ xem xét các vốn chủ sở hữu hay cả cổ phiếu của công ty đó. Vậy ước tính đồng thuận là gì? Ước tính đồng thuận và tính hiệu quả của thị trường?
Mục lục bài viết
1. Ước tính đồng thuận là gì?
Ước tính đồng thuận trong tiếng Anh là Consensus Estimate.
Khái niệm.
Ước tính đồng thuận là dự báo về thu nhập dự kiến về một công ty đại chúng. Tính đồng thuận được phản ánh trên các số liệu được thể hiện thông qua các hoạt động được công ty tiến hành, Sử dụng các dữ liệu hay tình hình hoạt động thực tế để đánh giá. Là con số được tính dựa trên những đánh giá kết hợp của các nhà phân tích. Những số liệu này thường được lập cho mỗi quí, năm tài chính hiện tại và năm tài chính tiếp theo. Dựa trên ước tính tổng hợp của tất cả các nhà phân tích vốn chủ sở hữu, bao gồm cổ phiếu.
Các ước tính được phản ánh căn cứ trên báo cáo tài chính cũng như tính chất thu nhập ở các giai đoạn trước. Các thuận lợi hay khó khăn được xem xét để phản ánh thu nhập dự kiến có chuyển biến như thế nào.
Các bài báo thường đưa ra nhận xét rằng chỉ số tài chính của một công ty đã “vượt qua kì vọng” hay “thấp hơn kì vọng”. Các “kì vọng” này thường chỉ ước tính đồng thuận. Và kỳ vọng thường được phản ánh chính xác khi công ty có những hoạt động chuyển mình. Mang đến các giá trị thu nhập khác biệt. Trong thực tế, khi một công ty có hoạt động ổn định trong các giai đoạn thị trường khác nhau. Rất khó để đưa ra các đánh giá về hả năng vượt kỳ vọng. Các nhà phân tích cố gắng đưa ra ước tính về những gì công ty sẽ đạt được trong tương lai. Dựa trên các dự đoán, mô hình, tâm lí thị trường và nghiên cứu.
Xuất hiện trong báo giá cổ phiếu hay tóm tắt ở những tờ báo phổ biến.
Ước tính đồng thuận có thể xuất hiện trong báo giá cổ phiếu. Khi mà các giá trị công ty phản ánh giá trị của cổ phiếu. Các nhà đầu tư hoặc doanh nghiệp khác có thể nắm bắt tình hình kinh doanh hay hoạt động. Ước tính đối với thu nhập dự kiến cũng liên quan và tác động đến giá trị cổ phiếu. Bởi nó là cơ sở cho các nhà đầu tư quan tâm đến cổ phiếu. Nếu thông qua hoạt động tính toán, các ước tính thu nhập liên tục giảm có thể ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư. Họ nghi ngại rằng hoạt động công ty đang gặp bất ổn. Do đó mà hoạt động mua hay bán cổ phiếu không được ổn định có thể ảnh hưởng đến giá trị thực của cổ phiếu.
Ngoài ra các tác động khác có thể xảy ra với các giá trị phản ánh từ ước tính đồng thuận. Bởi người ta tin tưởng vào các giá trị được phản ánh từ nhà phân tích. Nhà đầu tư thường căn cứ vào những số liệu khách quan được phản ánh từ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Hoặc xuất hiện khi tóm tắt ở những tờ báo phổ biến. Chẳng hạn như trên trang web của Wall Street Journal, Bloomberg, Visible Alpha, Morningstar.com và Google Finance. Nhằm thông báo những biến đổi dễ nhận biết trong thu nhập dự kiến của một công ty đại chúng. Các giá tri này được phản ánh tuy không phải thu nhập thực tế trong giai đoạn đó nhưng có cơ sở để thể hiện. Do đó mà nó được mọi người quan tâm.
2. Ý nghĩa của ước tính đồng thuận:
Ước tính đồng thuận “ám chỉ” mối lo ngại của nhà đầu tư về một công ty hoặc lĩnh vực nhất định. Bởi ngoài việc xem xét các đánh giá công ty trên thực tế hay qua giá trị cổ phiếu. Nhà đầu tư vẫn rất quan tâm đến ước tính đồng thuận. Bởi các căn cứ được thể hiện bởi phân tích cũng có một phần nhìn nhận đến hoạt động tương lai của doanh nghiệp.
Điều này có thể giúp giải thích lí do tại sao giá cổ phiếu của một công ty được nhanh chóng điều chỉnh thông tin mới. Được cung cấp bởi số thu nhập và doanh thu hàng quí. Mặc dù những con số này độc lập với ước tính đồng thuận. Các báo cáo hàng quý thường được lập và công bố. Với các giá trị này không tạo ra nhiều chênh lệch có thể củng cố thêm tính phản ánh của thu nhập dự kiến.
Trong ngắn hạn, việc thu nhập của công ty thấp hơn ước tính đồng thuận rất hiếm khi là một thảm họa. Bởi ước tính đồng thuận cho ra khả năng thu nhập cao hơn. Nó giúp nhà đầu tư tin tưởng hơn vào các giá trị tương lai của doanh nghiệp. Việc tiếp tục sở hữu cổ phần hay đầu tư mới vào công ty sẽ giúp doanh nghiệp củng cố tài chính. Trong thời gian ngắn, khó có thể có những chuyển biến hay tác động xấu.
3. Ước tính đồng thuận và tính hiệu quả của thị trường:
Ước tính đồng thuận được thực hiện bởi các đánh giá phân tích cá nhân. Khi mà các nhà phân tích chỉ dựa trên các thông tin ước lượng để tính toán. Không hoàn toàn chính xác và phù hợp với hoạt động thực tế của doanh nghiệp. Việc xác định thu nhập chỉ mang tính chất dự kiến dựa trên kinh nghiệm và khả năng phán đoán. Và đây không phải là một môn khoa học chính xác. Việc đánh giá này giúp so sánh giữa các công ty đại chúng, và so sánh với các kỳ vọng của chủ sở hữu.
Chưa được phản ánh khách quan, chính xác các thu nhập dự kiến.
Báo cáo của các nhà phân tích không chỉ dựa vào báo cáo tài chính. Việc thực hiện thiếu tính chính xác được thể hiện và phản ánh trên nhiều phương diện. Bởi các dữ liệu có thể không được tổng hợp đầy đủ và chính xác. Các giá trị thu nhập phản ánh chỉ dựa trên các dữ liệu dễ dàng nhận biết. Ngoài ra trong hoạt động của công ty, có thể có những hoạt động tìm kiếm doanh thu khác. Nó thuộc về hoạt động nội bộ mà nhà phân tích không thể nắm bắt.
Chúng cũng có thể bị nhà quản lí công ty hoặc các nhân viên khác thao túng. Các tác động này đưa ra phản ánh khác nhau trong thu nhập dự kiến. Bởi nó ảnh hưởng đến phân tích, đánh giá của nhà đầu tư để lựa chọn doanh nghiệp phù hợp. Việc nâng khống các thu nhập dự kiến có thể đưa ra các con số đáng mơ ước. Nhờ vậy mà nhà đầu tư đánh giá sai tiềm năng khi lựa chọn đầu tư vào doanh nghiệp.
Ngoài ra, ước tính đồng thuận cũng liên quan đến các thông số đầu vào. Như chú thích, bình luận của ban quản lí, nghiên cứu về tổng thể ngành. Các công ty có qui mô tương tự trong ngành, và những phân tích kinh tế vĩ mô. Tất cả các yếu tố này đều có tác động và phản ánh thu nhập của công ty. Nó cần được phản ánh trong ước tính đồng thuận để cho ra giá trị thu nhập sát nhất với thực tế hoạt động.
Mô hình chiết khấu dòng tiền (DCF).
Các nhà phân tích thường sẽ sử dụng dữ liệu đầu vào từ các nguồn trên và đặt chúng vào mô hình chiết khấu dòng tiền (DCF). Khi mà các căn cứ thu nhập được xem xét một cách đầy đủ, khách quan nhất. Các hoạt động trong tương lai có thể được doanh nghiệp thực hiện và tạo ra thu nhập. Với từng giai đoạn xem xét cụ thể. Nhà phân tích có thể vẽ ra các viễn cảnh chân thực nhất tìm kiếm thu nhập tương ứng.
Phương pháp định giá theo DCF dựa trên nguyên tắc cơ bản nhất là ước tính giá trị tất cả các luồng thu nhập tự do mà tổ chức phát hành sẽ thu được trong tương lai. Khi đó, vừa phản ánh được đầy đủ các nguồn thu có thể trên thực tế. Vừa phản ánh được khả năng tạo thu nhập của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để phản ánh các kỳ vọng cho hiên tại với ước tính đồng thuận. Cần phải qui chúng về giá trị hiện tại bằng cách chiết khấu các luồng thu nhập này theo một mức lãi suất chiết khấu thích hợp. Các giá trị chiết khấu có thể chịu tác động của yếu tố thời gian. Hay tính ổn định của giá trị tiền. Việc chiết khấu giúp đưa ra cái nhìn tích cực nhất về giá trị thu nhập dự kiến.
4. Ý nghĩa phản ánh qua mô hình:
Giá trị phản ánh trong trường hợp này được xem xét là các giá trị thu nhập có thể sẽ được tạo ra bởi doanh nghiệp. Nếu giá trị hiện tại thu được theo phương pháp này thấp hơn giá thị trường của cổ phiếu hiện tại. Một nhà phân tích có thể kết luận rằng cổ phiếu đang được giao dịch với giá thấp hơn mức đồng thuận. Và ngược lại. Nó cũng phản ánh cho nhà đầu tư thấy được các tiềm năng của cổ phiếu qua các giai đoạn khác nhau. Từ đó có ý nghĩa đối với hoạt động kêu gọi và huy động vốn của doanh nghiệp trong các thời gian tới.
Tất cả điều này dẫn đến một số người tin rằng thị trường không hiệu quả như những gì mọi người thường tin. Và sự “hiệu quả” được điều khiển bởi các ước tính có thể không chính xác về vô số các sự kiện trong tương lai. Tính hiệu quả thị trường được phản ánh trên các giai đoạn và giá trị phản ánh của ước tính đồng thuận. Nó có thể không phải giá trị thu nhập thực tế. Tuy nhiên lại ảnh hưởng đến tính chất hiệu quả thị trường. Khi mà các giai đoạn sau của doanh nghiệp có thể bị tác động ít hay nhiều từ ước tính đồng thuận.