Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cố định là một tỷ số được sử dụng trong tài chính, định giá và kế toán, như một thước đo khả năng sinh lời và tiềm năng tạo ra giá trị của công ty so với số vốn mà các cổ đông đầu tư và những người khai cuộc khác. Vậy tỷ suất lợi nhuận trên vốn cố định là gì? Công thức và ý nghĩa?
Mục lục bài viết
1. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cố định là gì?
– Tỷ suất lợi nhuận trên vốn (Return on Fixed Capital – ROC ), hay tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROIC ), là một tỷ số được sử dụng trong tài chính, định giá và kế toán , như một thước đo khả năng sinh lời và tiềm năng tạo ra giá trị của công ty so với số vốn mà các cổ đông đầu tư và những người khai cuộc khác. Nó chỉ ra mức độ hiệu quả của một công ty trong việc chuyển vốn thành lợi nhuận.
– Tỷ lệ này được tính bằng cách lấy thu nhập hoạt động kinh doanh sau thuế ( NOPAT ) chia cho giá trị sổ sách trung bình của vốn đầu tư(IC). Vốn cố định bao gồm các tài sản và đầu tư vốn , chẳng hạn như tài sản, nhà máy và thiết bị (PP&E), cần thiết để bắt đầu và tiến hành hoạt động kinh doanh, ngay cả ở giai đoạn tối thiểu. Những tài sản này được coi là cố định ở chỗ chúng không bị tiêu thụ hoặc bị phá hủy trong quá trình sản xuất thực tế hàng hóa hoặc dịch vụ nhưng có giá trị tái sử dụng. Các khoản đầu tư vốn cố định thường được khấu hao trên báo cáo kế toán của công ty trong một khoảng thời gian dài – lên đến 20 năm hoặc hơn.
– Khái niệm này lần đầu tiên được nhà kinh tế học Adam Smith phân tích sâu về mặt lý thuyết trong Sự giàu có của các quốc gia (1776) và bởi David Ricardo trong Các nguyên tắc kinh tế chính trị và thuế (1821). Ricardo đã nghiên cứu việc sử dụng máy móc thay thế cho lao động và kết luận rằng sự sợ hãi của người lao động về công nghệ thay thế chúng có thể là chính đáng. Do đó, vốn cố định là phần của tổng số vốn được đầu tư vào tài sản cố định (chẳng hạn như cải tạo đất, nhà cửa, xe cộ, nhà máy và thiết bị), ở lại doanh nghiệp gần như vĩnh viễn – hoặc ít nhất, cho nhiều hơn một kỳ kế toán. Tài sản cố định có thể được mua bởi một doanh nghiệp, trong trường hợp đó doanh nghiệp sở hữu chúng. Họ cũng có thể được cho thuê , cho thuê hoặc cho thuê , nếu điều đó rẻ hơn hoặc thuận tiện hơn, hoặc nếu việc sở hữu tài sản cố định trên thực tế là không thể (vì lý do pháp lý hoặc kỹ thuật).
– Khắc phục sự phân biệt cổ điển giữa vốn cố định và vốn luân chuyển trong Das Kapital , Karl Marx nhấn mạnh rằng sự phân biệt này thực sự thuần túy mang tính tương đối, tức là nó chỉ đề cập đến tốc độ luân chuyển so sánh (thời gian luân chuyển) của các loại tài sản vốn vật chất khác nhau. Vốn cố định cũng “luân chuyển”, chỉ khác là thời gian luân chuyển dài hơn nhiều, vì tài sản cố định có thể được giữ trong 5, 10 hoặc 20 năm trước khi phát huy giá trị và bị loại bỏ để lấy lại giá trị. Một tài sản cố định cũng có thể được bán lại và sử dụng lại, điều này thường xảy ra với các phương tiện và máy bay. Trong tài khoản quốc gia , vốn cố định được quy ước là lượng tài sản cố định hữu hình, lâu bền thuộc sở hữu hoặc sử dụng của các doanh nghiệp cư trú trên một năm. Điều này bao gồm nhà máy, máy móc, phương tiện và thiết bị, công trình lắp đặt và cơ sở hạ tầng vật chất, giá trị của việc cải tạo đất và các tòa nhà.
– Các hệ thống châu Âu của tài khoản quốc gia và khu vực (ESA95) một cách rõ ràng bao gồm sản xuất tài sản vô hình (ví dụ như khai thác khoáng sản, phần mềm máy tính, bảo vệ bản quyền vui chơi giải trí, văn học gốc và artistics) trong định nghĩa của TSCĐ. Bản thân đất đai không được bao gồm trong khái niệm thống kê về vốn cố định, mặc dù nó là một tài sản cố định. Lý do chính là đất đai không được coi là sản phẩm (hàng hóa có thể tái sản xuất). Nhưng giá trị của cải tạo đất được bao gồm trong khái niệm thống kê về vốn cố định, được coi là việc tạo ra giá trị gia tăng thông qua sản xuất.
2. Công thức tỷ suất lợi nhuận trên vốn cố định:
* Công thức: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cố định được tính theo công thức sau:
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cố định = Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp/ Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ
– Có ba thành phần chính của phép đo này đáng chú ý:
+ Trong khi các tỷ lệ như lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và lợi nhuận trên tài sản sử dụng thu nhập ròng làm tử số, ROIC sử dụng thu nhập hoạt động ròng sau thuế (NOPAT) , có nghĩa là chi phí sau thuế (thu nhập) từ hoạt động tài chính được cộng lại vào (khấu trừ từ) thu nhập ròng.
+ Trong khi nhiều phép tính tài chính sử dụng giá trị thị trường thay vì giá trị sổ sách (ví dụ: tính toán tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu hoặc tính trọng số cho giá vốn bình quân gia quyền (WACC)), ROIC sử dụng giá trị ghi sổ của vốn đầu tư làm mẫu số. Quy trình này được thực hiện bởi vì, không giống như giá trị thị trường phản ánh kỳ vọng trong tương lai ở các thị trường hiệu quả, giá trị sổ sách phản ánh chặt chẽ hơn số vốn ban đầu đầu tư để tạo ra lợi nhuận.
+ Mẫu số đại diện cho giá trị trung bình của vốn đầu tư chứ không phải là giá trị cuối năm. Điều này là do NOPAT đại diện cho tổng dòng tiền, trong khi giá trị của vốn đầu tư thay đổi hàng ngày (ví dụ: vốn đầu tư vào ngày 31 tháng 12 có thể thấp hơn 30% so với vốn đầu tư vào ngày 30 tháng 12). Vì khó tính giá trị trung bình chính xác nên người ta thường ước tính bằng cách lấy trung bình cộng giữa IC đầu năm và IC cuối năm. Một số học viên thực hiện một điều chỉnh bổ sung đối với công thức để thêm các khoản khấu hao, khấu hao và tiêu hao trở lại tử số. Vì những khoản phí này được coi là “chi phí không phải tiền mặt” thường được bao gồm như một phần của chi phí hoạt động, nên việc cộng gộp những khoản phí này được cho là phản ánh chặt chẽ hơn lợi nhuận bằng tiền của một công ty trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, những người khác có thể lập luận rằng các khoản phí không dùng tiền mặt này nên được loại ra khỏi công thức vì chúng phản ánh sự suy giảm thời gian sử dụng của một số tài sản nhất định trong mẫu số.
3. Ý nghĩa lợi nhuận trên vốn cố định:
– Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cố định có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc phân tích khả năng duy trì của một doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cố định là một trong những chỉ tiêu tài chính mà nhìn vào đó, doanh nghiệp đó biết được hiệu quả, năng suất làm việc của mình.
– Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cố định xác định được lợi nhuận của doanh đó, đánh giá tác động, phân tích, báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Bởi vì lý thuyết tài chính cho rằng giá trị của một khoản đầu tư được xác định bởi cả số tiền và rủi ro của dòng tiền dự kiến của nó đối với nhà đầu tư, nên cần lưu ý ROIC và mối quan hệ của nó với chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC).
– Chi phí sử dụng vốn là lợi tức mong đợi từ các nhà đầu tư do chịu rủi ro dòng tiền dự kiến của một khoản đầu tư đi chệch hướng so với kỳ vọng. Người ta nói rằng đối với các khoản đầu tư trong đó dòng tiền trong tương lai ngày càng ít chắc chắn hơn, các nhà đầu tư hợp lý yêu cầu tỷ suất lợi nhuận ngày càng cao hơn để bù đắp cho việc chịu mức độ rủi ro cao hơn. Trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, WACC là một phép đo chung về lợi tức bình quân gia quyền kỳ vọng tối thiểu của tất cả các nhà đầu tư trong một công ty dựa trên mức độ rủi ro của các dòng tiền trong tương lai của công ty.
– Vì lợi tức trên vốn đầu tư được cho là đo lường khả năng của một công ty trong việc tạo ra lợi tức từ vốn của mình và vì WACC được cho là đo lường lợi tức kỳ vọng tối thiểu mà các nhà cung cấp vốn của công ty đó yêu cầu, nên sự khác biệt giữa ROIC và WACC đôi khi được coi là là “lợi nhuận vượt mức” hay ” lợi nhuận kinh tế ” của một công ty .
– Các khoản đầu tư vốn cố định thường không giảm giá theo cách đồng đều được thể hiện trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Một số mất giá khá nhanh, trong khi số khác có thời gian sử dụng gần như vô hạn. Ví dụ, một chiếc xe mới mất giá trị đáng kể khi nó chính thức được chuyển từ đại lý sang chủ mới. Ngược lại, các tòa nhà do công ty sở hữu có thể mất giá với tốc độ thấp hơn nhiều. Phương pháp khấu hao cho phép các nhà đầu tư ước tính sơ bộ về giá trị của các khoản đầu tư vốn cố định đang đóng góp vào hoạt động hiện tại của công ty.