Khi xã hôi ngày càng trở nên phát triển thì việc con người hướng tới việc tự do cũng cao hơn, việc tự do ngôn luận, tụ do đi lại, tự do phát triển và tự do về tinh thần. Vậy tự do là gì? Ý nghĩa và cách để có được sự tự do nội tâm?
Mục lục bài viết
1. Tự do là gì?
Tự do được hiểu là có khả năng hành động hoặc thay đổi mà không bị ràng buộc hoặc sở hữu quyền lực và nguồn lực để thực hiện các mục đích của mình. Tự do thường gắn liền với tự do và tự chủ theo nghĩa “tự cho mình theo luật của mình”, và với việc có các quyền và các quyền tự do dân sự để thực hiện chúng mà không bị nhà nước can thiệp quá mức. Các loại tự do chính trị thường được thảo luận bao gồm tự do hội họp, tự do lập hội, tự do lựa chọn và tự do ngôn luận.
Theo một định nghĩa, một cái gì đó là “miễn phí” nếu nó có thể thay đổi dễ dàng và không bị ràng buộc ở trạng thái hiện tại. Trong triết học và tôn giáo, tự do đôi khi gắn liền với việc có ý chí tự do và không bị ràng buộc vô cớ hoặc bất công đối với ý chí đó, chẳng hạn như nô lệ. Đó là một ý tưởng gắn chặt với khái niệm Tự do phủ định.
Tự do phủ định là một khái niệm thường được sử dụng trong triết học chính trị. Ý tưởng rằng tự do có nghĩa là có thể làm những gì bạn muốn, mà không có bất kỳ trở ngại bên ngoài. Khái niệm này đã bị chỉ trích là quá đơn giản và không tính đến tầm quan trọng của việc tự nhận thức cá nhân. Tự do tích cực là khả năng thực hiện các mục đích của một người.
Trong vật lý hoặc kỹ thuật, khái niệm toán học cũng có thể được áp dụng cho một cơ thể hoặc hệ thống bị ràng buộc bởi một bộ phương trình, bậc tự do của chúng mô tả số lượng chuyển động độc lập được phép thực hiện.
Trong diễn ngôn chính trị, tự do chính trị thường gắn liền với tự do và tự chủ theo nghĩa “tự cho mình theo luật của mình”, và với việc có các quyền và tự do dân sự để thực hiện chúng mà không bị nhà nước can thiệp quá mức. Các loại tự do chính trị thường được thảo luận bao gồm tự do hội họp, tự do lập hội, tự do lựa chọn và tự do ngôn luận.
Trong một số trường hợp, đặc biệt khi thảo luận bị giới hạn trong các quyền tự do chính trị, các thuật ngữ “tự do” và “tự do” có xu hướng được sử dụng thay thế cho nhau. Tuy nhiên, ở những nơi khác, sự khác biệt tinh vi giữa tự do và tự do đã được ghi nhận. Để phân biệt tự do với tự do ở chỗ, tự do chủ yếu, nếu không muốn nói là riêng, là khả năng làm theo ý muốn của một người và những gì người ta có quyền làm; trong khi quyền tự do liên quan đến việc không có các hạn chế tùy tiện và có tính đến quyền của tất cả những người có liên quan. Do đó, việc thực hiện quyền tự do phụ thuộc vào khả năng và bị hạn chế bởi quyền của người khác.
2. Ý nghĩa của sự tự do nội tâm:
Tự do nội tâm là khả năng của các cá nhân để đảm nhận trách nhiệm mà họ có, đưa ra các quyết định thích nghi có ý thức. Có thể kiếm được tự do bởi những cá nhân có khả năng chịu trách nhiệm cho các hành động thích ứng của họ trong một môi trường có thể bỏ qua các nhu cầu của bản thân khi đưa ra quyết định. Mọi người đã mất tự do khi nhu cầu thúc đẩy hành động của họ.
Do đó, tự do nội tâm là thứ mà con người đạt được từng bước, nếu họ có thể trả giá, hoặc mất đi từng bước, nếu họ cần áp đặt các quy tắc của mình. Có thể nói, tự do nội tâm là một điều không tưởng khi nhu cầu bản năng, nhu cầu tình cảm và các giá trị xã hội là thứ kìm hãm sự tự do nội tâm. Những cá nhân đạt được tự do bên trong có thể đưa ra quyết định chính xác dựa trên khả năng thực hiện và phân biệt bên trong của họ với bên ngoài, điều này cho phép họ đảm nhận trách nhiệm cá nhân, xã hội và siêu việt.
Ý nghĩa của tự do nội tâm:
“Tự do có liên quan đến tính chủ quan của con người; tự do thì không. Chẳng hạn, Tuyên ngôn Độc lập mô tả nam giới có quyền tự do và quốc gia được tự do. Ý chí tự do – phẩm chất không bị kiểm soát bởi số phận hoặc sự cần thiết – có thể đầu tiên đã được quy cho ý chí của con người, nhưng vật lý Newton quy tự do – bậc tự do, các vật thể tự do – cho các vật thể. ”
“Tự do khác với tự do vì kiểm soát khác với kỷ luật. Tự do, giống như kỷ luật, được liên kết với các thể chế và đảng chính trị, cho dù là tự do hay theo chủ nghĩa tự do; tự do không phải là tự do. Mặc dù tự do có thể hoạt động cho hoặc chống lại các thể chế, nhưng nó không bị ràng buộc với họ – nó đi qua các mạng không chính thức. Có tự do là được giải phóng khỏi điều gì đó; được tự do là được tự quyết định, tự chủ. Tự do có thể tồn tại hoặc không thể tồn tại trong một trạng thái tự do: một người có thể được giải phóng nhưng không được tự do, hoặc tự do nhưng vẫn bị nô lệ.
Một điểm khác biệt khác mà một số nhà lý luận chính trị cho là quan trọng là mọi người có thể khao khát có được tự do khỏi bị giới hạn bởi các lực lượng (chẳng hạn như tự do khỏi sợ hãi, tự do không muốn và không bị phân biệt đối xử), nhưng những mô tả về tự do và tự do nói chung không ám chỉ việc có tự do từ bất cứ thứ gì. Ngược lại, khái niệm tự do tiêu cực đề cập đến quyền tự do mà một người có thể có để hạn chế quyền của người khác.
Các lĩnh vực quan trọng khác mà tự do là một vấn đề bao gồm tự do kinh tế, tự do học thuật, tự do trí tuệ, tự do khoa học và tự do chính trị
3. Cách để có được tự do nội tâm:
– Cho phép bản thân đối diện với nỗi sợ hãi của bạn trong 2-3 phút tại một thời điểm
– Viết ra những điều bạn biết ơn
– Nhắc nhở bản thân rằng sự lo lắng của bạn là một kho của trí tuệ
– Tập thể dục
– Sử dụng sự hài hước để xoa dịu nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của bạn
– Hãy trân trọng lòng dũng cảm của bạn
Thứ nhất, ràng buộc bên trong:
– Nô lệ của tội lỗi, bị ám ảnh day dứt, bất an, lo lắng.
– Đeo bám tình cảm và kí ức dĩ vãng:
+ Kí ức dĩ vãng: lụy tình cảm, sợ hãi, lòng hận thù, nhớ nhung, lo lắng,…
+ Thế giới hình ảnh: ánh mắt, hình ảnh xấu,… tất cả đều được quy lại như camera, không thể quên được, kể cả chìm vào vô thức.
+ Thế giới âm thanh: tiếng quát mắng, lời nói, lời đường mật, tiếng la hét, lời tán tỉnh yêu thương, lời rỉ tai,…
+ Thế giới cảm xúc: sự đụng chạm trên thân xác, bóp cổ, tính dục, sự xô đẩy, nụ hôn, ôm,…
– Hoạt động tính dục
– Ý chỉ thống trị: sự kiêu ngạo, tự mãn – Bệnh tật – Sự ngờ vực của lòng tin, cứng tin, xao xuyến
– Sự giằng co giữa khát vọng vô biên và thực tại trong cuộc sống
Thứ hai, ràng buộc bên ngoài:
– Đến từ gia đình, những thông tin từ gia đình cung cấp (cha mẹ ốm,..), sự đồng thuận cho đi tu hay không, gia cảnh của gia đình (nghèo nên mặc cảm)….
– Đến từ nhà dòng: luật lệ, qui luật, chương trình, kế hoạch, xung đột, áp lực công việc, bề trên, chị em – Cộng đoàn khác! sự khác biệt về chị em, linh đạo, đời sống chung.
– Xã hội – chính trị: chúng ta không thể tự do khi Giáo hội bị bách hại, khó khăn hay đi tu ngoại quốc thì cũng phải lệ thuộc vào chính trị.
Rèn luyện tự do nội tâm để đạt được sự tự do nội tâm, ta cần để mình không lệ thuộc người khác. Dù bất cứ chuyện gì xảy ra vẫn chủ động, bình tĩnh đón nhận. Ai nói gì, tốt thì nghe, không tốt thì kệ họ. Khen chê là quyền của họ, mình cứ giữ sự tự do của mình. Khi đó mới không bị vùi dập. Muốn đạt được điều đó, ta cần phải có sự khiêm nhường thực sự nhờ ơn Chúa.
Tuy nhiên, tự do nội tâm không phải là bất cần đời, không để tại hay không quan tâm bất kì người nào, nhưng mình cần ý thức mình đang cần hết mọi người, cần bận tâm và lo lắng đến tất cả. Dù là bệnh nhân, anh chị em trong cộng đoàn… mình đều cần đến họ, quý họ chứ không vô cảm, vô tâm với họ. Bù lại, ta phải có tình thương, sự nâng đỡ, quan tâm thật để có liên đới và tình yêu thật sự. Nhưng cũng không phải vì thế mà để cảm xúc làm nô lệ hóa bản thân. Minh quan tâm tất cả nhưng lại không để những điều đó đè bẹp được mình, làm mình mục nát mà vẫn giữ được sự độc lập của bản thân.