Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã thể hiện niềm cảm thương sâu sắc đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Tác phẩm được giới thiệu trong chương trình Ngữ văn lớp 9.
Mục lục bài viết
1. Khái quát nội dung truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ:
1.1. Nhân vật Vũ nương:
a. Vẻ đẹp của Vũ Nương
*Trước khi làm dâu:
– Giới thiệu: tính thùy mị nết nà, tư dung tốt đẹp
→ Vẻ đẹp hoàn hảo, sự kết hợp hài hòa giữa ngoại hình và đức hạnh.
*Khi làm dâu:
– Một người mẹ yêu thương con cái: Mẹ chỉ vào bóng mình trên tường và nói đó là bố của Đản.
→ Thấu hiểu tâm lý trẻ em và yêu thương chúng.
– Là người vợ hiếu thảo:
+ Nếu mẹ chồng bị bệnh: uống thuốc, lễ Phật, khuyên nhủ bằng lời lẽ tử tế, khuyên lơn.
+ Mẹ chồng mất: lo tang lễ cẩn thận như mẹ ruột của mình.
→ Mẹ chồng cảm động sâu sắc với tình cảm của Vũ Nương.
– Là người vợ chung thủy:
+ Khi chồng ở nhà, giữ gìn khuôn phép và không để xảy ra chuyện gì.
+ Ra tiễn chồng đi lính: Rót cho anh một ly rượu và nói lời chúc phúc; không muốn danh hiệu hay chức vị gì, chỉ muốn chồng an toàn trở về. Hiểu và thông cảm với vỡi nỗi vất vả của chồng; thể hiện sự mong nhớ.
+ Khi không ở bên chồng: Nhớ chồng da diết
+ Chồng nghi ngờ một cách vô lý: tìm mọi cách để xóa tan nghi ngờ và bảo vệ hạnh phúc gia đình.
=> Là một người mẹ yêu thương, một người con dâu hiền hậu, một người vợ chung thủy, luôn coi trọng hạnh phúc gia đình.
*Sau khi chết (ở thủy cung)
– Nặng nghĩa, nặng tình và vị tha:
+ Sống hạnh phúc ở thủy cung → Nhớ quê hương và mộ tổ tiên.
+ Trương sinh lập đàn giải oan → Trở về: không phàn nàn, nói lời cảm ơn.
– Người coi trọng danh dự: mong muốn được giải oan
– Trở thành người biết ơn: hứa sống chết không từ bỏ → không bao giờ quay trở lại thế giới người sống.
=> Vũ Nương mang vẻ đẹp lý tưởng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
b. Số phận bất hạnh
*Khi làm dâu
– Sau khi kết hôn không lâu, chồng nàng đi lính→ Sống một mình.
– Mọi công việc phải tự mình gánh vác.
– Khi chồng về bị hiểu lầm, lăng mạ, đánh đập và đuổi đi.
* Cái chết oan ức
– Lý do
+ Trực tiếp: Lời nói ngây thơ của Đản → Trương Sinh cho rằng vợ mình có lỗi.
+ Gián tiếp:
Trương Sinh đa nghi, ghen tuông, thô lỗ, gay gắt,…
Hôn nhân không phù hợp: Trương Sinh là “con nhà giàu” còn Vũ Nương là “con nhà khó’ → Xây dựng địa vị ở Trương Sinh: có tiền và có quyền.
Chiến tranh phong kiến gây ra cảnh sinh tử chia ly.
Chế độ nam quyền độc tài, bất công.
– Ý nghĩa
+ Khẳng định đức tính của nhân vật vũ nương.
+ Bày tỏ sự thương cảm với số phận bi thảm của nhân vật.
+ Lên án các cuộc chiến tranh phong kiến và các chế độ do nam giới thống trị đã tước đoạt các quyền sống và hạnh phúc chính đáng của phụ nữ.
1.2. Nhân vật Trương sinh:
– Xuất thân từ một gia đình giàu có nhưng không có học thức.
– Nghi ngờ, ghen tuông, độc đoán:
+ Cảnh giác quá mức với vợ.
+ Nghe lời con → cho rằng vợ không chung thủy.
+ Phớt lờ lời giải thích của vợ → mắng mỏ và đuổi đi.
+ Không tin những lời bênh vực vợ mình.
+ Không đưa ra lý do để vợ có cơ hội minh oan.
→ Bướng bỉnh và bảo thủ.
– Khi mọi chuyện sáng tỏ, nhận ra mình đã nghi ngờ sai lầm về vợ → vẫn chưa định xin lỗi.
– Khi Phan lang trao lại kỉ vật của vợ, nhớ lại quá khứ và lập đền thờ giải oan cho nàng
1.3. Yếu tố kỳ ảo trong truyện:
a. Chi tiết kỳ ảo
– Phan lang nằm mơ và thả rùa ra.
– Phan lang lạc vào Động Rùa của Linh phi, gặp Vũ nương và được đưa về thế giới thực.
– Vũ nương tự sát → được tiên nữ cứu sống và sống dưới thủy cung.
– Trường Sinh lập bàn thờ giải oan→ Vũ nương xuất hiện, từ biệt rồi biến mất.
b. Cách đưa yếu tố giả tưởng vào câu chuyện
Xen kẽ với các yếu tố kỳ ảo, yếu tố hiện thực (địa điểm, giai đoạn lịch sử, sự kiện lịch sử, nhân vật, hoàn cảnh tại quê hương) được đan xen với tính chân thực và thuyết phục.
c. Tầm quan trọng của chi tiết huyền ảo
– Tạo đặc điểm của thể loại truyện thần kì truyền thống
– Tôn lên vẻ đẹp tự nhiên của Vũ nương một cách hoàn hảo.
– Câu chuyện trở nên bi kịch hơn.
– Tạo ra một kết thúc có hậu, thể hiện ước mơ của mọi người về công lý.
– Giá trị nhân đạo.
2. Giới thiệu về tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”:
2.1. Tóm tắt:
Vũ Nương là một cô gái xinh đẹp, nết na và thùy mị, được chàng Trương yêu mến và cưới nàng làm vợ. Ngày chồng nhập ngũ, nàng vô cùng, dặn dò chồng cẩn thận và đã cầu mong cho chồng bình an trở về. Ở nhà, nàng tận tình, một lòng một dạ chăm sóc con trai và mẹ chồng trong những ngày cuối đời. Khi người chồng về đưa con ra mộ mẹ, đứa trẻ tiết lộ việc bố mỗi đêm đến thăm nó khiến Trương Sinh nghi ngờ và nổi ghen tuông Khi Trường Sinh trở về nhà, anh mắng mỏ và đuổi Vũ Nương đi mặc cho nàng van xin và giải thích mọi việc. Để chứng minh lòng trung thành của mình, Vũ Nương đã nhảy xuống sông tự tử. Sau đó, Trương Sinh biết được hành vi sai trái của mình và hiểu ra oan khuất của nàng nên rất đau buồn nhưng Vũ Nương không thể quay lại thế giới loài người được nữa và ở lại thủy cung mãi mãi.
2.2. Giá trị nội dung:
– Tác phẩm phản ánh hiện thực về một xã hội phong kiến bất công với chế độ nam quyền, chà đạp lên số phận của người phụ nữ. Đồng thời, qua nhân vật Vũ Nương, tác phẩm ngợi đức tính của người phụ nữ Việt Nam: thùy mị, nết na, luôn có khuôn phép và vô cùng chung thủy với chồng.
– Tác phẩm thể hiện sự đồng cảm của tác giả trước số phận nghiệt ngã của người phụ nữ.
2.3. Giá trị nghệ thuật:
– Tạo tình huống câu chuyện độc đáo. Việc sử dụng yếu tố kỳ ảo nhấn mạnh giá trị nhân văn của tác phẩm này.
– Bởi nghệ thuật xây dựng nhân vật khéo léo, nhân vật được xây dựng thông qua lời nói và hành động. Dù cách kể chuyện và đối thoại của các nhân vật sử dụng nhiều hình ảnh Ước lệ nhưng đời sống nội tâm của các nhân vật vẫn được thể hiện một cách đậm nét và chân thật.
3. Tác giả Nguyễn Dữ:
3.1. Tiểu sử:
– Nguyễn Dữ là một danh sĩ nổi tiếng thời Lê sơ, thời nhà Mạc, sống vào khoảng thế kỷ 16.
– Ông là con trai cả của Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay là xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, Hải Dương.
– Ông từng là học trò của
– Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương Nối nghiệp nhà
– Nguyễn Dữ đậu Hương tiến (Cử nhân) và làm quan với nhà Mạc, sau đó về với nhà Lê làm Tri huyện Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Nhưng chỉ sau một năm, vì bất mãn với thời cuộc, lấy cớ nuôi mẹ, ông xin về ở núi rừng Thanh Hóa để ẩn cư. Từ đó “trải mấy năm dư, chân không bước đến thị thành” rồi ông mất tại Thanh Hóa.
3.2. Tác phẩm chính:
– Tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ là quyển Truyền kỳ mạn lục, gồm 20 truyện viết bằng chữ Hán, theo thể loại tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca. Trong mỗi truyện đều có lời bình của tác giả hoặc người có cùng quan điểm với tác giả.
– Tác phẩm được viết vào khoảng năm 1547 khi ông ẩn cư ở Thanh Hóa, được Hà Thiện Hán viết lời Tựa, Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi dịch ra chữ Nôm. Tác phẩm được coi là một “thiên cổ kỳ bút”, thể hiện quan điểm chính trị, thái độ nhân sinh và ý tưởng đạo đức của Nguyễn Dữ.
– Truyền kỳ mạn lục vừa có giá trị hiện thực và nhân đạo cao, vừa là mô thức tuyệt tác của thể loại truyền kỳ. Tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài và được đánh giá cao trong số các tác phẩm truyền kỳ ở các nước đồng văn.
– Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục là một trong những tác phẩm văn học cổ điển của Việt Nam, được Nguyễn Dữ biên soạn vào thế kỷ 14. Tác phẩm gồm 6 quyển, mỗi quyển ghi lại những sự kiện lịch sử, truyền thuyết, văn hóa, đạo đức và tôn giáo của Việt Nam từ thời Hùng Vương đến thời Lý – Trần. Tác phẩm có giá trị văn học cao, phản ánh đời sống xã hội, tư tưởng triết học và tinh thần dân tộc của người Việt trong giai đoạn phát triển lịch sử quan trọng. Tác phẩm cũng là nguồn tư liệu quý báu cho việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ của Việt Nam.
– Trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã sử dụng nhiều nguồn sách khác nhau, từ các bản ký sự, biên niên, địa chí đến các bản thơ ca, ca dao, tục ngữ. Tác phẩm có nhiều chỗ trích dẫn hoặc dựa theo các tác phẩm văn học Trung Quốc như Tam quốc diễn nghĩa, Tây du ký, Lão tử, Chuang Tzu… Tác phẩm được viết bằng chữ Hán nhưng có nhiều chỗ sử dụng từ ngữ tiếng Việt để diễn đạt ý nghĩa gần gũi với độc giả; được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác như Anh, Pháp, Nhật, Hàn…