Tổ chức không gian kinh tế-xã hội là gì? Đặc trưng? Các nguyên tắc chung về tổ chức không gian kinh tế xã hội?
Không thể không phát triển thành công nền kinh tế khu vực nếu không tạo ra những điều kiện đặc biệt và hình thành cơ chế đảm bảo sự phát triển kinh tế – xã hội cân bằng và bền vững của các khu. Để đạt được các mục tiêu nêu trên tác giả đề xuất một giải pháp dựa trên việc tạo ra một mô hình mới về mặt khái niệm để tổ chức không gian kinh tế – xã hội của các vùng lãnh thổ thông qua cấu trúc mạng lưới cụm được thiết kế nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và tăng khả năng cạnh tranh của kinh tế khu vực. Nhiều cách tiếp cận phương pháp luận khác nhau và một số phương pháp nghiên cứu khoa học chung và độc đáo đã được sử dụng, bao gồm cả phương pháp hệ thống – cấu trúc, cũng như phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh và mô hình hóa.
Mục lục bài viết
1. Tổ chức không gian kinh tế-xã hội là gì?
Trong tiếng anh tổ chức không gian kinh tế-xã hội hay còn được gọi với tên gọi là Tổ chức lãnh thổ có thể được tạm dịch là: Organizing socio-economic space.
Tổ chức không gian kinh tế-xã hội hay tổ chức lãnh thổ được xác định là sự “sắp xếp” và “phối hợp” các đối tượng trong một mối quan hệ liên ngành hay những đối tượng được xác định ở đây chính là liên vùng nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên và tiềm năng lao động hay là các vấn đề liên quan đến vị trí địa lí kinh tế, chính trị và cơ sở vật chất kĩ thuật đã và sẽ tạo dựng.
Để tổ chức không gian kinh tế-xã hội có thể mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao và nâng cao mức sống cho dân cư và bảo đảm sự phát triển bền vững của một lãnh thổ.
Trong đó thì kinh tế xã hội là một nhánh của kinh tế học – và một khoa học xã hội – tập trung vào mối quan hệ giữa hành vi xã hội và kinh tế. Kinh tế xã hội bao gồm hai quan điểm rộng, mặc dù đối lập trong cách tiếp cận của chúng, nhưng có thể được coi là bổ sung cho nhau. Công cụ đầu tiên, do nhà Nobel Gary Becker tiên phong, áp dụng các công cụ lý thuyết và ứng dụng cơ bản của kinh tế vi mô tân cổ điển vào các lĩnh vực hành vi của con người theo truyền thống không được coi là một phần của kinh tế học thích hợp, chẳng hạn như tội phạm và trừng phạt, lạm dụng ma túy, hôn nhân và các quyết định gia đình.
Thứ hai, áp dụng các ý tưởng của các khoa học xã hội khác, chẳng hạn như xã hội học, tâm lý học và các nghiên cứu về nhóm bản sắc cho các đối tượng có bản chất kinh tế như hành vi người tiêu dùng hoặc thị trường lao động. Những người thực hành kinh tế xã hội này sử dụng lịch sử, các sự kiện hiện tại, chính trị và các khoa học xã hội khác để dự đoán các xu hướng xã hội có khả năng tác động đến nền kinh tế. Lĩnh vực kinh tế xã hội này là trọng tâm chính của bài viết này.
2. Đặc trưng:
Mô hình khái niệm về tổ chức không gian kinh tế – xã hội thông qua cấu trúc mạng cụm được trình bày. Cơ chế tổ chức và kinh tế hoạt động của các hình thành mạng cụm được phát triển.
Có thể thấy rằng mô hình mạng cụm, trái ngược với mô hình cụm được sử dụng rộng rãi, làm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trên quy mô lớn hơn do tác động nhân lên của các quá trình phân cụm và mạng.
Những đổi mới được đề xuất trong bài báo này nhằm bổ sung hoặc mở rộng các phương pháp tiếp cận khoa học hiện có để phân cụm và kết nối nền kinh tế cả ở cấp độ khu vực và liên vùng.
Không thể không phát triển thành công nền kinh tế khu vực nếu không tạo ra những điều kiện đặc biệt và hình thành cơ chế đảm bảo sự phát triển kinh tế – xã hội cân bằng và bền vững của các khu. Để đạt được các mục tiêu nêu trên tác giả đề xuất một giải pháp dựa trên việc tạo ra một mô hình mới về mặt khái niệm để tổ chức không gian kinh tế – xã hội của các vùng lãnh thổ thông qua cấu trúc mạng lưới cụm được thiết kế nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và tăng khả năng cạnh tranh của kinh tế khu vực.
Nhiều cách tiếp cận phương pháp luận khác nhau và một số phương pháp nghiên cứu khoa học chung và độc đáo đã được sử dụng, bao gồm cả phương pháp hệ thống – cấu trúc, cũng như phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh và mô hình hóa. Theo kết quả của nghiên cứu, những ưu điểm của mô hình mạng cụm, trái ngược với mô hình cụm tổ chức các mối quan hệ tương tác kinh tế là chính đáng. Mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế – xã hội và tổ chức không gian đô thị chưa được quan tâm đúng mức trong tài liệu.
Ví dụ như: Thành phố Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ, đã được chọn làm khu vực nghiên cứu và các vùng lân cận với số lượng hơn 300 người được nhóm thành 6 cụm dựa trên những điểm tương đồng của chúng liên quan đến các chỉ số xã hội và kinh tế bằng cách sử dụng phân tích cụm theo thứ bậc. Các khu vực lân cận gần trung tâm cụm nhất được chọn làm đại diện cụm. Tổ chức không gian trong các vùng lân cận đại diện được định lượng bằng cách sử dụng các chỉ số lý thuyết đồ thị.
3. Các nguyên tắc chung về tổ chức không gian kinh tế xã hội:
Thứ nhất, nguyên tắc gần tương ứng được thể hiện dựa trên các ngành các cơ sở sản xuất cần bố trí gần tương ứng với nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng, lao động và gần thị trương tiêu thụ. Từ nguyên tắc này có thể thấy được những thuận lợi trong việc tổ chức không gian kinh tế xã hội như việc giảm chi phí vận tải, giảm giá thành qua đó gia tăng khả năng cạnh tranh. Hay còn là việc các doanh nghiệp có thể sử dụng tốt tiềm lực của địa phương. Đồng thời cũng giúp cho năng suất lao động trực tiếp và năng suất lao động xã hội ngày càng tăng cao hơn so với trước đó.
Thứ hai, không thể nào bỏ qua một nguyên tắc nữa trong tổ chức không gian kinh tế xã hội đó chính là nguyên tắc cân đối lãnh thổ. Và nguyên tắc tổ chức sản xuất cân đối theo lãnh thổ nghĩa được hiểu theo cách đơn giản nhất đó chính là tổ chức phù hợp với điều kiện của từng vùng trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. Từ nguyên tắc này có thể thấy được những thuận lợi trong việc tổ chức không gian kinh tế xã hội như: việc sử dụng mọi nguồn lực của mọi vùng đất nước, gia tăng hợp lí của của cải vật chất tinh thần cho xã hội. Hay từ nguyên tắc này có thể thấy được việc mở rộng liên kết giữa các vùng, mở rộng thị trường tiêu thụ và kết hợp điều hòa phân bố nhân khẩu. Đồng thời nó còn làm giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát triển của các vùng. Tạo điều kiện phát triển ổn định và bền vững cho nền kinh tế vùng và cả nước.
Thứ ba, đó chính là nguyên tắc kết hợp ngành và lãnh thổ, theo nguyên tắc này thì nó được thể hiện thông qua việc kết hợp nông nghiệp-công nghiệp, thành thị-nông thôn. Từ nguyên tắc này có thể thấy được những thuận lợi trong việc tổ chức không gian kinh tế xã hội như: trong nền công nghiệp sẽ được cung cấp nguyên liệu, thực phẩm, lao động… đồng thời sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, máy móc, vật tư, phân bón…; Đối với nên nông nghiệp sẽ có điều kiện hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp vì vậy giảm bớt rủi ro, mở rộng thị trương tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Cũng chính bởi vì thế mà việc kết hợp nông nghiệp-công nghiệp sẽ tạo điều kiện phát triển nông nghiệp, nâng cao mức sống dân cư, phát triển cơ sở hạ tầng, thành thị hóa nông thôn, giảm bớt sự cách biệt thành thị-nông thôn.
Thứ tư, nguyên tắc kết hợp chuyên môn hóa và đa dạng hóa vùng. Từ nguyên tắc này có thể thấy được những thuận lợi trong việc tổ chức không gian kinh tế xã hội như việc tận dụng toàn bộ nguồn lực của vùng (lợi thế đặc biệt, lợi thế nhỏ) vào sự phát triển bền vững, ổn định có hiệu quả cao.
Thứ năm, nguyên tắc phát triển kinh tế và bảo vệ quốc phòng. Từ nguyên tắc này có thể thấy được những thuận lợi trong việc tổ chức không gian kinh tế xã hội nhằm mục đích hạn chế khả năng tấn công của địch, bảo vệ các thành quả kinh tế, duy trì sản xuất.
Thứ sau, nguyên tắc tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Từ đó nhằm tạođiều kiện phát triển bền vững.
Thứ bảy, nguyên tắc mở và hội nhập. Từ nguyên tắc này có thể thấy được những thuận lợi trong việc tổ chức không gian kinh tế xã hội do cơ cấu nguồn lực mỗi nước, mỗi vùng khác nhau và thường không đầy đủ vì vậy nếu mở rộng liên kết kinh tế sẽ giúp bổ sung nguồn lực và phát huy nguồn lực sẵn có ở địa phương, đồng thời cũng cũng tăng cường giao lưu văn hóa, khoa học kĩ thuật, mở rộng thị trường tiêu thụ.