Việc sử dụng tiền từ xưa đến nay luôn là hình thức giao dịch trực tiếp là hai bên đưa trực tiếp cho nhau không thông quan hình thức nào khác. Tuy nhiên, do xã hội phát triển nên việc sử dụng tiền mặt cũng hạn chế đó là vì có thể thay thế bằng hình thức khác thuận tiện hơn trong quản lý.
Mục lục bài viết
1. Tiền mặt bị hạn chế sử dụng?
Tiền mặt là tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành và được lưu hành trong thị trường sử dụng trong đời sống hàng ngày. Có thể thấy hiện nay bên cạnh việc sử dụng tiền giấy đã có hình thức khác phát triển song song đó chính là sử dụng tiền thông qua hình thức giao dịch chuyển khoản qua thẻ ngân hàng giúp hạn chế được rất nhiều rủi do hoặc tiết kiệm được thời gian giao dịch. Tuy nhiên khi hình thức này được mở rộng thì kéo theo đó là tiền mặt sẽ bị hạn chế sử dụng hơn.
Tiền mặt bị hạn chế sử dụng trong tiếng Anh là Restricted Cash. Tiền mặt bị hạn chế sử dụng đề cập đến tiền được giữ cho một mục đích cụ thể và không có sẵn cho công ty sử dụng ngay lập tức cho mục đích kinh doanh .
Tiền mặt bị hạn chế sử dụng hiển thị dưới dạng một mục riêng biệt ở mục tiền và các khoản tương đương tiền trên bảng cân đối kế toán của công ty hoặc báo cáo tài chính. Lí do tiền mặt bị hạn chế sử dụng thường được giải thích trong thuyết minh báo cáo tài chính.
Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành Hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp, giải thích và bổ sung thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kì báo cáo mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ và chi tiết. Ngoài ra còn phản ánh tổng hợp các số liệu tài chính quan trọng của doanh nghiệp trong một giai đoạn nhất định bao gồm: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng thuyết minh báo cáo tài chính
Trong thực tế việc hạn chế tiền mặt có thể thấy chủ yếu thuộc về các doanh nghiệp, công ty trong việc đầu tư mua sắm hàng hóa, trang thiết bị và cũng sẽ được thống kê qua các bảng thuyết minh báo cáo tài chính của bộ phận trong doanh nghiệp giữ trách nhiệm thống kê về hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Như vậy, tiền mặt đối với Việt nam là tiền được làm bằng giấy có đơn vị là Đồng Việt Nam được phát hành trên thị trường và được công dân sử dụng với phạm vi trong nước mình. Tuy nhiên với sự phát triển của xã hội thì tiền mặt ngày đang dần bị hạn chế ử dụng tùy theo mục đích sử dụng của cơ quan, tổ chức trong việt chi ra ngoài.
2. Đặc điểm của Tiền mặt bị hạn chế sử dụng:
Tiền mặt bị hạn chế sử dụng hiển thị trên bảng cân đối kế toán của công ty dưới dạng tiền mặt bị hạn chế sử dụng khác hoặc là tài sản khác.
Có một số tài khoản có thể trình bày tiền mặt bị hạn chế sử dụng. Ví dụ, tiền mặt bị hạn chế sử dụng được phân loại là một tài sản lưu động hay tài sản dài hạn, tùy thuộc vào khung thời gian mà mục đích hạn chế được thực hiện.
Nếu tiền mặt bị hạn chế sử dụng dự kiến sẽ được sử dụng trong vòng 01 năm kể từ ngày thực hiện bảng cân đối kế toán gần đây nhất, thì nó được phân loại là một tài sản lưu động. Trường hợp nếu tiền mặt bị hạn chế dự kiến sẽ không được sử dụng trong khung thời gian 01 năm, thì nó được phân loại là một tài sản dài hạn.
Mặc dù có thể được chỉ định là tiền mặt bị hạn chế sử dụng và được giữ trong tài khoản ngân hàng đặc biệt, nhưng số tiền mặt bị hạn chế sử dụng vẫn được đưa vào báo cáo tài chính của công ty dưới dạng tài sản tiền mặt. Bởi lẽ mọi hoạt động liên quan đến tiền của công ty đều được bộ phận nào đó ghi chép lại toàn bộ các khoản thu chi để có biện pháp cân đối lập bảng thuyết minh lại báo cáo tài chính.
Trong trường hợp tiền mặt bị hạn chế sử dụng không được sử dụng như dự định, thì nó có thể trở thành tiền mặt thông thường không bị hạn chế mà công ty có thể chuyển vào tài khoản tiền mặt chung hoặc chi tiêu cho mục đích kinh doanh chung.
Ví dụ, một công ty có thể giữ tiền mặt bị hạn chế sử dụng cho mục đích chi tiêu đầu tư nhưng sau đó quyết định không thực hiện đầu tư nữa. Tiền mặt bị hạn chế sử dụng đó sẽ được công ty chi tiêu hoặc đầu tư vào nơi khác.
3. Ví dụ về Tiền mặt bị hạn chế sử dụng:
Có thể thấy một trong những lý do phổ biến nhất cho việc một công ty nắm giữ tiền mặt bị hạn chế sử dụng là vì cần một khoản chi phí vốn dự kiến hoặc đó là một phần của thỏa thuận với bên thứ ba. Người cho vay có thể yêu cầu công ty phải nắm giữ một lượng tiền mặt bị hạn chế sử dụng như một tài sản thế chấp một phần so với khoản vay hay hạn mức tín dụng.
Ngân hàng hoặc người cho vay khác có thể yêu cầu công ty thiết lập một tài khoản tiền mặt hạn chế được chỉ định trong đó công ty phải duy trì số dư tối thiểu, đôi khi được gọi là số dư bù hay trong tiếng anh còn được gọi là Compensating balance, tương đương với tỉ lệ tín dụng được ngân hàng gia hạn.
Trường hợp này thường phổ biến trong các tình huống ngân hàng cấp một khoản vay kinh doanh cho chủ sở hữu của một doanh nghiệp nhỏ mới thành lập. Các công ty cũng thường xuyên dành riêng một khoản tiền mặt bị hạn chế sử dụng trong kế hoạch chi tiêu đầu tư.
Thanh toán bằng tiền mặt là việc tổ chức, cá nhân sử dụng tiền mặt để trực tiếp chi trả hoặc thực hiện các nghĩa vụ trả tiền khác trong giao dịch thanh toán.Tại Việt Nam, có đến 90% tổng số giao dịch được thanh toán bằng tiền mặt, bởi lẽ:
+ Đây là thói quen thanh toán tồn tại lâu đời từ khi có đồng tiền xuất hiện, thích hợp với những giao dịch có giá trị nhỏ hằng ngày như việc mua bán hành hóa hàng ngày mà chúng ta vẫn thường xuyên thực hiện;
+ Không qua trung gian thanh toán nên hạn chế những thủ tục rườm rà, cách thức thanh toán nhanh chóng, đơn giản có thể thấy điều này ngay trực tiếp khi mua hàng thì bên mua sẽ trả bằng tiền mặt cho bên bán mà không phải thông qua hình thức chuyển qua thẻ ngân hàng hoặc giao dịch khác.
+ Bảo mật thông tin cá nhân, do người thanh toán không cần cung cấp bất kỳ thông tin nào cho dịch vụ, nên khả năng rò rỉ được giảm thiểu tối đa bởi lẽ người trả tiền trả trực tiếp bằng tiền mặt còn đối với hình thức trả tiền khác như qua thẻ ngân hành thì cần cung cấp thông tin cá nhân làm cơ sở đảm bảo cho giao dịch.
+ Tiền mặt do chính cá nhân, tổ chức trực tiếp quản lý, không tốn kém các chi phí khác như phí duy trì tài khoản, phí sử dụng thẻ thường niên thu theo tháng ở hạn mức nhất định, phí giao dịch mỗi khi chuyển tiền,… .
Tuy nhiên, trước xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của nền kinh tế thị trường, những giao dịch trên phạm vi toàn cầu có giá trị lớn xuất hiện ngày càng nhiều thì phương thức thanh toán bằng tiền mặt dần không còn phù hợp, vì phương thức thanh toán truyền thống này tiềm ẩn những rủi ro nhất định:
Thứ nhất, chi phí cho việc thanh toán của nền kinh tế tăng cao, phát sinh từ khâu phát hành tiền mặt của Ngân hàng Nhà nước đến vận chuyển, bảo quản, kiểm, đếm tiền của hệ thống ngân hàng cũng như của các chủ thể tham gia giao dịch thanh toán (các tổ chức, cá nhân) khi phải giao dịch với số tiền lớn.
Thứ hai, tính an toàn thấp, nguy cơ rủi ro, mất mát lớn có thể trong quá trình lưu giữ hay vận chuyển cho bên giao dịch vì có những trường trường hợp số tiền lớn dẫn đến khó kiểm soát. Tốn kém chi phí vận chuyển, khó khăn khi thực hiện thanh toán quốc tế, không bảo đảm an toàn khi số tiền lớn, khoảng cách giao dịch xa.
Thứ ba, các cơ quan quản lý sẽ khó khăn trong việc xác định tính xác thực của các giao dịch. Có thể xảy ra tình trạng giao dịch khống nhằm mục đích trốn thuế, gian lận thuế của các doanh nghiệp kinh doanh.
Vì vậy, để khuyến khích các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, ngày 31-12-2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 222/2013/NĐ-CP Về thanh toán bằng tiền mặt, quy định cụ thể: “Các tổ chức sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước không thanh toán bằng tiền mặt trong các giao dịch, trừ một số trường hợp được phép thanh toán bằng tiền mặt theo quy định của Bộ Tài chính. Các tổ chức sử dụng vốn nhà nước không thanh toán bằng tiền mặt trong các giao dịch, trừ một số trường hợp được phép thanh toán bằng tiền mặt theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”.
Từ những hạn chế về việc thanh toán bằng tiền mặt trên có thể cho thấy so với sự phát triển kinh tế, hội nhập xã hội hiện nay thì việc sử dụng tiền mặt trong mọi trường hợp rất cần thiết hạn chế đặc biệt là đối với các giao dịch mà hạn mức tiền quá lớn vì kèm theo đó rất nhiều nhưng rủi ro mà chúng ta có thể lường trước được. Mặc dù việc hạn chế sử dụng tiền mặt giúp quản lý tiền một cách thuận tiện hơn nhưng cũng không thể phủ nhận rằng sẽ nhiều thủ tục phát sinh cũng rất cần đến tính chính xác.