Trong những tác phẩm văn học xuất sắc của nền văn học Việt Nam không thể không nhắc đến "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Bài viết dưới đây là tổng hợp những bài thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô đại cáo chọn lọc siêu hay.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý bài thuyết minh về Bình Ngô đại cáo chi tiết nhất:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu vấn đề cần thuyết minh – Tác phẩm Bình Ngô đại cáo.
1.2. Thân bài:
– Trình bày luận điểm công bằng: bản chất của nhân nghĩa là yên dân, trừ bạo. Nhân nghĩa không chỉ giới hạn trong khuôn khổ tư tưởng Nho giáo mà rộng hơn là làm sao mang lại cho con người cuộc sống bình yên. Ngoài ra, chúng ta khẳng định rằng nước ta là một nước nhỏ, nhưng vẫn có thể tự hào.
– Cáo trạng nêu rõ tội ác giặc.
– Tóm tắt quá trình kháng chiến
– Khẳng định nền độc lập của đất nước.
– Nghệ thuật.
1.3. Kết bài:
– Liên hệ bản thân.
2. Thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô đại cáo chọn lọc nhất:
“Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi được coi là tác phẩm kinh điển của nền văn học đất nước, một trong nhiều tác phẩm được viết nhằm tô thắm truyền thống yêu nước ngàn đời của dân tộc ta. Tác phẩm tiêu biểu là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai, được coi là “thiên cổ hùng văn”.
Nguyễn Trãi quê ở Chi Ngãi (Chí Linh, Hải Dương) mang hiệu Ức Trai. Ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo nhưng mang đậm truyền thống yêu nước và đặc biệt quan tâm đến văn học, văn hóa đất nước. Cha và ông của Nguyễn Trãi cùng là những người học cao, có nhiều đóng góp quan trọng.
Giống như bao tấm gương lớn của các thế hệ trước, Nguyễn Trãi đắm mình trong lịch sử, năm 1400 đỗ Thái học sinh và được bổ làm quan đến chức Hộ bộ. Năm 1407, vì nhà Hồ không đủ sức chống lại sự tấn công dữ dội của quân Minh, cha ông bị bắt sang Trung Quốc và ông quyết định gia nhập nghĩa quân Lam Sơn để chiến đấu bảo vệ đất nước.
Được sự giúp đỡ, sự lãnh đạo tài ba và những sự đồng lòng vô cùng nhiệt tình, nghĩa quân của Nguyễn Trãi, Lê Lợi và Lâm Sở đã lập được nhiều chiến công vang dội trước quân Minh xâm lược. Lê Lợi tin tưởng vào Nguyễn Trãi – ông đã là vua nước Đại Việt. Nhưng sau đó xảy ra nhiều nội loạn, lừa đảo, loạn lạc trong triều, Nguyễn Trãi quyết định trở về quê tìm cuộc sống mới để tránh cạm bẫy.
Nhưng ước nguyện của ông không thành, khi ông nghi có liên quan vào vụ giết vua oan ở Lệ Chi Viên vào năm 1442, ông và cả gia đình phải nhận hình phạt khủng khiếp, tru di tam tộc. Vua Lê Thánh Tông mãi đến năm 1464 mới xóa tội cho ông.
Ông đã để lại cho nước nhà nhiều tác phẩm có giá trị ở nhiều lĩnh vực. Sáng tác của ông được viết bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Hầu hết các tác phẩm của ông đều phục vụ đắc lực cho tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm của quân dân nước nhà và bày tỏ sự quan tâm đến đất nước, nhân dân.
Hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm gắn với hoàn cảnh đất nước ta vừa trải qua bao trận chiến và những năm tháng gian khổ chống ách xâm lược của quân Minh. Sau chiến thắng oanh liệt đó, Nguyễn Trãi đã thay mặt vua Lê Lợi viết sớ để lập nền độc lập cho nước nhà. “Bình ngô đại cáo” được sáng tác năm 1428, là lời tố cáo mạnh mẽ chống giặc ngoại xâm, đồng thời cũng là bản tuyên ngôn thành lập một nền độc lập mới trên đất nước.
“Bình Ngô đại cáo” được tác giả viết theo một thể loại rất đặc biệt – thể cáo. Đây là một thể loại văn học của Trung Quốc mà các vị vua và các nhà lãnh đạo thường sử dụng để hoạch định chính sách, đưa ra quyết định hoặc thông báo các sự kiện quan trọng cho mọi người. Cáo dùng từ rất đanh thép, sắc bén và đặc biệt là có cấu tạo một cách rõ ràng, logic.
Từ nhan đề tác phẩm của Nguyễn Trãi, người đọc có thể hình dung giá trị của nó. Từ “đại cáo” trong tiêu đề cho người đọc biết rằng đây không chỉ là một báo cáo, mà là một báo cáo có tầm quan trọng quốc gia. Hơn nữa, dù dân tộc ta có cuộc chiến tranh chống quân xâm lược nhà Minh, nhưng trong tựa sách lại xuất hiện chữ Ngô, là cách gọi của người Trung Quốc theo tục lệ của dân tộc ta, nhưng rất thù địch, chế nhạo. Suốt ngàn đời nay, phương bắc luôn âm mưu xâm chiếm bờ cõi, chúng đã làm cho dân ta chịu biết bao khó khăn, gian khổ. Chính vì vậy mà nhân dân ta đã không một giây phút nguôi ngoai trước sự dã man, tàn bạo của chúng để bây giờ trút hết lên đầu quân xâm lược Minh.
Để xác định chủ quyền quốc gia và nền độc lập của nước Đại Việt, Nguyễn Trãi đã xác lập một luận đề công bằng có tầm quan trọng không thể thiếu:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Luận điểm trên củng cố mối quan hệ khăng khít giữa nhân dân, nhà nước và nhân nghĩa. Nhân là một khái niệm rất quan trọng của Nho giáo, nói về cách ứng xử của con người dựa trên cái thiện và đạo đức. Tuy nhiên, trong lúc tiến công, tác giả cụ thể hóa biểu hiện của một người sống có chính nghĩa, đó là khả năng trừ bạo. Đây là một chân lý rất thiết thực, phù hợp với hoàn cảnh xã hội nước ta lúc bấy giờ. Nhân dân Việt Nam bất kể già trẻ nam nữ đều phải đấu tranh cho nền độc lập của nước nhà. Đây là một quan niệm được xác lập rất chắc chắn:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.”
Không thiếu những anh hùng hào kiệt ở mọi triều đại:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Thuyết minh “Bình ngô đại cáo”, tác phẩm không chỉ nhấn mạnh đến độc lập, chủ quyền dân tộc mà còn là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của kẻ thù đối với nhân dân trong 20 năm đô hộ nước ta.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa.”
Chúng đang muốn chà đạp và nghiền nát đất nước chúng ta. Độc ác, dã man hơn là chúng sẵn sàng tước đoạt mạng sống con người một cách man rợ:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.”
Tội ác chúng gây ra quả thật nhiều vô kể:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.”
Nói đến sự tàn bạo của giặc, tác giả không sao tả xiết. Trong lời buộc tội này ta thấy được những cảm xúc vô cùng sục sôi, phẫn nộ và chua xót mà nhà văn gửi gắm vào đó. Tác giả luôn hướng tới cuộc sống ấm no hạnh phúc của con người.
Quân dân ta chung sức chống lại tội ác man rợ của kẻ thù để đấu tranh giành lại chủ quyền đất nước. Các anh hùng liệt sỹ, đặc biệt là vị tướng tài Lê Lợi đều xuất thân bình thường.
“Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.”
Đánh giặc gặp muôn vàn khó khăn gian khổ:
“Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu.”
Đã có lúc ông phải đối mặt với cái chết khi thiếu lương thực:
“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Khi Khôi Huyện quân không một đội.”
Nhưng với tinh thần quật cường và ý chí sắt đá, quân dân ta đã đoàn kết đánh thắng giặc ngoại xâm. Chúng ta đã chiến thắng và giành được độc lập, sự thất bại nhục nhã của kẻ thù là cái kết tất nhiên của những gì chúng đã gây ra. Nhưng điều kỳ lạ ở đây là dù chúng có dã man, tàn ác đến đâu, dù cho đồng bào ta có bị chà đạp, hành hạ bao nhiêu, thì chúng vẫn dùng lòng vị tha của mình để mở đường cho chúng một con đường sống. Vì vậy cuối cùng chúng ta vẫn dùng nhân nghĩa để đối phó với kẻ thù. Rồi chúng ta sẽ thấy việc xử lý tội ác của kẻ thù sẽ làm cho tình người của chúng ta trở nên vô cùng cao quý, lên một tầm cao mới.
Độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước được khôi phục sau bao đau thương mất mát là kết quả tốt đẹp của một dân tộc chiến đấu anh dũng và sống chính nghĩa:
“Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Càn khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục sạch làu.”
Câu nói của tác giả thể hiện niềm tin mãnh liệt vào nền hòa bình trường tồn của dân tộc ta. Sau bao tháng ngày bị chà đạp, áp bức, bóc lột, nhân dân ta nay đã tự cứu mình, tìm lại cuộc sống tự do cho dân tộc. Hai câu cuối của bài cáo cũng là sự kết thúc của một giai đoạn đầy khó khăn, đấu tranh và mở ra cánh cửa của một thời đại tươi sáng và thịnh vượng:
“Một cố nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.”
“Bình Ngô đại cáo” thực sự là một kiệt tác cả về nội dung và nghệ thuật. Tác giả đã vận dụng khéo léo lối viết kết hợp chính luận và văn học. Khi viết tác phẩm, tác giả chuyển giọng rất linh hoạt, hình ảnh sử dụng trong phóng sự rất sinh động, hùng vĩ.
Nguyễn Trãi còn sử dụng thành công biện pháp liệt kê đa dạng, giàu hình ảnh thể hiện cuộc đối đầu giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến. Cảnh bạo loạn là một trong những bài thơ đặc sắc nhất về nghệ thuật.
Có thể thấy rằng với giá trị to lớn của tác phẩm, “Bình Ngô Đại Cáo” xứng đáng là một tác phẩm kinh điển của nền văn học Việt Nam. Bản cáo trạng không chỉ khẳng định vững chắc chủ quyền, độc lập dân tộc mà còn ảnh hưởng to lớn đến ý chí quật cường, không ngừng đấu tranh chống giặc ngoại xâm và bản lĩnh, tinh thần nhân văn của dân tộc ta.
3. Thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô đại cáo siêu ngắn:
Nhắc đến Bình Ngô Đại Cáo, người ta nhớ đến nhà văn – người anh hùng dân tộc vĩ đại đó là Đại thi hào Nguyễn Trãi.
Vào năm 1427, Nguyễn Trãi đã viết ra bài Cào này và đến đầu năm 1428 Bình Ngô Đại Cáo được ông đọc trước toàn dân để kể cho mọi người về quá trình nhân dân ta chống quân Minh xâm lược. Qua đó chứng tỏ cuộc chiến tranh này đã kết thúc 20 năm giặc Minh đô hộ và 10 năm diệt phản của quân dân ta mà Nguyễn Trãi đã nói đến. Ngoài ra, sự kiện này còn mở ra một kỷ nguyên mới, mở ra cuộc sống độc lập hòa bình cho nhân dân và đất nước Đại Việt ta.
Đại cáo Bình Ngô nghĩa là bản Tuyên ngôn Độc lập thể hiện luận điểm công bằng ở đây: tư tưởng nhân nghĩa trong quan niệm Nho giáo, đó là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, giữa nhân dân dựa trên tình nghĩa và đạo đức, “cốt ở yên dân’’ trong đoạn:
“Từng nghe,
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo’’
Thế là chúng ta đã hiểu, Nguyễn Trãi cho rằng “lấy dân làm gốc, làm cho dân được sống yên lành hạnh phúc”. Nghệ thuật được ông sử dụng là đưa ra phép so sánh, cùng với lối văn biền ngẫu, một bài thơ song hành với nhân cách của một nhà chính trị tài ba.
Bản cáo trạng của Nguyễn Trãi vạch trần tội ác giặc Minh:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Nặng thuế khóa…
Vét sản vật, bắt chim trả…’’
Qua vài câu ngắn ngủi như vậy cũng đủ để lên án tội ác của những kẻ xâm lược Đại Việt ta. Ở đây, Nguyễn Trãi đã dùng biện pháp thể hiện tội ác ghê gớm của giặc Minh: nghệ thuật tự do, lấy tính vô cùng của thiên nhiên để nhấn mạnh tính vô cùng của tội ác, hủy diệt sự sống, tính mạng con người bằng tội ác diệt chủng.
Chấm dứt chiến tranh, bắt đầu một kỷ nguyên hòa bình: giọng điệu thoải mái, nhẹ nhàng, vui tươi và tuyên ngôn thống nhất độc lập dân tộc, từ đó rút ra được bài học cho đất nước chúng ta trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại “trên dưới một lòng”, lòng dân quyết xây dựng nền hòa bình vững chắc.
Bình Ngô Đại Cáo đã thành công thể hiện những nội dung của mà Nguyễn Trãi muốn truyền tải, xứng đáng là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất về thể loại cáo. Kết hợp cùng với giọng văn hùng tráng thể hiện tinh thần cũng như nỗi uất hận của dân tộc ta đã tạo nên một áng văn thiên cổ cho đất nước – Bình Ngô Đại Cáo.