Để cải thiện phân cấp quản lý thủy lợi, các nhà hoạch định chính sách đang thúc đẩy sự phát triển của quản lý thủy lợi có sự tham gia của các bên liên quan từ cấp quốc gia, cấp tỉnh và địa phương, và đặc biệt là nông dân. Cách tiếp cận mới này bao gồm việc lồng ghép quản lý thủy lợi có sự tham gia vào kế hoạch và ngân sách hàng năm của chính phủ.
Mục lục bài viết
1. Thuỷ lợi phí là gì?
– Là chủ sở hữu quyền về nước với SRP, bạn không phải trả tiền nước; nó thuộc về đất của bạn. Phí và lệ phí cơ bản hàng năm giúp trả cho việc lưu trữ nước và xây dựng, vận hành và bảo trì các cơ sở SRP. Đất được tưới cũng bị tính phí cung cấp nước hàng năm, phí này phải trả cho chi phí hành chính để phục vụ một tài khoản thủy lợi đang hoạt động. Nhiều cổ đông sử dụng nhiều hơn mức phân bổ cơ sở của họ trong một năm tưới. Có một khoản phụ phí cho việc sử dụng nước phân bổ trên cơ sở này.
– Việc thu tiền nước thủy lợi của các bang không được khuyến khích. Cho đến khi một hệ thống đo lường phát triển tốt đi vào thực tế, hệ thống đánh giá và hiện hành sách thu ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm. Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm. Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa.
– Cần có chính sách biểu giá điện phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi vào việc bảo vệ nước ngầm. Cho đến khi một hệ thống đo lường phát triển tốt đi vào thực tế, hệ thống đánh giá và hiện hành sách thu ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm. Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa.
– Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm. Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá điện phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi vào việc bảo vệ nước ngầm.
– Cho đến khi một hệ thống đo lường phát triển tốt đi vào thực tế, hệ thống đánh giá và hiện hành sách thu ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm. Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm. Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá điện phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi vào việc bảo vệ nước ngầm.
– Cho đến khi một hệ thống đo lường phát triển tốt đi vào thực tế, hệ thống đánh giá và hiện hành sách thu ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm. Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm. Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá điện phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi vào việc bảo vệ nước ngầm.Cho đến khi một hệ thống đo lường phát triển tốt đi vào thực tế, hệ thống đánh giá và hiện hành sách thu ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa.
– Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm. Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm. Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá điện phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi vào việc bảo vệ nước ngầm.Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm. Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa.
– Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm. Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá điện phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi vào việc bảo vệ nước ngầm.Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm.
– Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi để đưa vào hoạt động bảo vệ môi trường ngầm. Hệ thống đánh giá và hiện hành ngân sách phải được hợp lý hóa và đơn giản hóa. Cần có chính sách biểu giá điện phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi vào việc bảo vệ nước ngầm.Cần có chính sách biểu giá điện phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi vào việc bảo vệ nước ngầm.Cần có chính sách biểu giá điện phù hợp cho các khu vực nông thôn và đưa ra các lĩnh vực thủy lợi vào việc bảo vệ nước ngầm.
2. Phương pháp tính, các khoản phí và ý nghĩa:
2.1. Phương pháp tính thuỷ lợi phí:
Về lí thuyết có bốn phương pháp tính thuỷ lợi phí: Diện tích tưới, loại cây trồng, khối lượng nước dùng và quyền của người sử dụng. Ngoài ra, còn phụ thuộc vào khả năng chi trả của người nông dân.
2.2. Các khoản thuỷ lợi phí và ý nghĩa:
Thuỷ lợi phí gồm các khoản:
– Khấu hao cơ bản, khấu hao sửa chữa lớn và chi phí sửa chữa thường xuyên các máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng, phương tiện vận tải và các phương tiện khác dùng vào việc duy trì, khai thác và quản lí các công trình thuỷ nông, không kể khấu hao cơ bản các máy bơm lớn;
– Chi phí sửa chữa lớn, tu bổ, sửa chữa thường xuyên các công trình xây dựng đúc và bằng đất, ngoài số nhân công do nhân dân đóng góp;
– Chi phí về điện và xăng dầu;
– Chi lương cho cán bộ, nhân viên và chi phí quản lí của các xí nghiệp thuỷ nông.
– Nghị định 115 do Chính phủ Việt Nam ban hành năm 2007 có tác động lớn đến việc vận hành và bảo trì cơ sở hạ tầng thủy lợi một cách hiệu quả và hiệu quả. Chính sách này bước đầu đã giúp ổn định công tác quản lý thủy lợi, làm tăng năng suất nông nghiệp và thu nhập của nông dân.
– Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng lợi ích kinh tế đã giảm do lạm phát và chính quyền cấp tỉnh thiếu cam kết thực hiện các cải cách thể chế thể hiện trong chính sách, bao gồm chuyển giao quản lý thủy lợi và quản lý thủy lợi có sự tham gia của người dân. Cập nhật các điều kiện chính sách và định mức chi phí tài chính, đồng thời thực hiện thay đổi có hệ thống trong thể chế quản lý thủy lợi sẽ cải thiện năng suất nông nghiệp và tăng thu nhập của nông dân để giúp phát triển nông thôn bền vững ở Việt Nam.
– Việc tập trung hóa quản lý thủy lợi đã ổn định tổ chức của các công ty quản lý thủy lợi và hệ thống thoát nước và bảo trì hệ thống thủy lợi đã cải thiện đời sống của những nông dân nghèo nhất và tạo môi trường thuận lợi cho việc xây dựng các định hướng chính sách mới. Các lựa chọn đã xuất hiện cho các nhà hoạch định để phát triển các giải pháp dài hạn để quản lý thủy lợi. Một phương án đang được các nhà hoạch định chính sách thảo luận là trả lại toàn bộ hoặc gần như toàn bộ kinh phí vận hành và bảo trì hệ thống thủy lợi cho nông dân. Chi tiêu của chính phủ trong lĩnh vực này sẽ tập trung vào đầu tư vốn vào cơ sở hạ tầng thủy lợi, bao gồm cả việc cải tạo lớn. Năng suất cây trồng cao và mật độ cây trồng có thể đạt được ở các vùng đồng bằng và nhiều chương trình khác cho thấy rằng việc vận hành và bảo trì do người dùng tài trợ nên khả thi.
– Miễn dịch vụ thủy lợi có thể được xem là giai đoạn đầu của kế hoạch dài hạn nhằm đổi mới công tác quản lý thủy lợi. Trợ cấp của chính phủ đã ổn định các công ty quản lý thủy lợi và thoát nước cũng như vận hành và bảo trì hệ thống thủy lợi và cải thiện sinh kế của nông dân.
– Các cuộc phỏng vấn và thảo luận với một số thành phần chỉ ra rằng trợ cấp thủy lợi phí đã mang lại nhiều lợi ích và họ tin tưởng rằng một mô hình quản lý thủy lợi hiệu quả và hiệu quả đang hình thành. Một số bên liên quan của chính phủ và các đối tác phát triển quốc tế đồng ý rằng trợ cấp thủy lợi phí nên được thay thế bằng một hệ thống trong đó chính phủ chủ yếu tập trung vào đầu tư vốn và vận hành và bảo trì do người sử dụng tài trợ. Một cách tiếp cận có hệ thống để thực hiện quản lý thủy lợi có sự tham gia là không thể thiếu đối với mô hình mới.