Thuế Tobin là gì? Đặc điểm của thuế Tobin? Cách thức áp dụng thuế Tobin?
Hiện nay trên thị trường nhu cầu giao dịch ngoại tệ hiện nay cũng xuất hiện khá nhiều theo đó cũng xuất hiện các loại thuế đánh vào các giao dịch này, trong đó có Thuế Tobin là một loại thuế có vai trò trong hạn chế sự biến động quá mức của tỉ giá đối hoái.
Mục lục bài viết
1. Thuế Tobin là gì?
Thuế Tobin trong tiếng Anh là ” Tobin Tax” .
Thuế Tobin được hiểu đó là một loại thuế để thi trên các giao dịch ngoại tệ với mục đích để hạn chế sự chuyển biến quá mức của tỉ giá hối đoái do hành vi đầu cơ tiền tệ gây ra. Trên thị trường hiện nay thì thuế Tobin được áp dụng cho những người tham gia ở lĩnh vực tài chính như một biện pháp kiểm soát sự ổn định của một loại tiền tệ nhất định. Điều này có nghĩa, nếu tăng thuế, sẽ không hạn chế được sự biến động của tỷ giá, nhất là trong điều kiện thị trường thiếu ổn định, thuế Tobin không đủ khả năng ngăn chặn khủng hoảng xảy ra. Bên cạnh đó, yếu tố thuế có thể làm giảm khối lượng giao dịch tiền tệ, khi khối lượng giao dịch giảm sẽ làm giảm tính thanh khoản của thị trường, trong khi đó thanh khoản của thị trường lại giúp thị trường tiền tệ hoạt động tốt hơn. Như vậy, khả năng thực hiện mục tiêu của thuế Tobin còn gây nhiều tranh cãi.
loại thuế này được ra đời và được xuất hiện trong bối cảnh đổ vỡ của hệ thống tài chính quốc tế Bretton Woods (giai đoạn 1944 – 1971). Hệ thống Bretton Woods qui định mức tỉ giá cố định của các đồng tiền chính với đồng USD được gắn với vàng (1 ounce vàng bằng 35 USD) và các nước thành viên, trừ Mỹ có nhiệm vụ duy trì tỉ giá hối đoái cố định của họ với USD. Khi Mỹ tuyên bố không chuyển đổi từ USD thành vàng, đã dẫn đến sự từ bỏ chế độ Bretton Woods, mở ra giai đoạn mà tỉ giá hối đoái được thả nổi (năm 1973), biến động theo qui luật của thị trường.Thuế Tobin, được đưa ra bởi James Tobin vào năm 1972 để tìm cách giảm thiểu hoặc loại bỏ những vấn đề trên. Thuế đã được một số nước châu Âu và Ủy ban châu Âu áp dụng để ngăn chặn việc đầu cơ tiền tệ trong ngắn hạn và ổn định thị trường tiền tệ.
2. Đặc điểm của thuế Tobin:
Loại thuế này chúng ta thường thấy nó là loại thuế đề xuất đối với các giao dịch tiền tệ ngắn hạn . Thuế Tobin được thiết kế để chỉ ngăn chặn các luồng đầu cơtiền nóng và tiền di chuyển thường xuyên giữa các thị trường tài chính để tìm kiếm lãi suất ngắn hạn cao. Nó không có nghĩa là ảnh hưởng đến các khoản đầu tư dài hạn. Chu kỳ đầu tư càng ngắn (tức là thời gian giữa việc mua và bán một loại tiền tệ), thuế suất hiệu dụng càng cao – do đó tạo ra các động lực dựa trên thị trường để kéo dài cơ cấu kỳ hạn của các khoản đầu tư.
Mặc dù chúng có thể được biết đến với những cái tên khác, nhưng những loại thuế như vậy có xu hướng được đặt theo tên của nhà kinh tế Mỹ James Tobin , người đầu tiên phổ biến ý tưởng về thuế giao dịch tiền tệ vào đầu những năm 1970. Tobin, người đoạt giải Nobel Kinh tế năm 1981, sau đó tách mình ra khỏi chiến dịch thường mang tên mình, cho rằng các nhà vận động đã đúng khi ủng hộ thuế giao dịch tiền tệ nhưng họ đã làm như vậy vì những lý do sai lầm. Nhiều lý do thường được viện dẫn để đưa ra một loại thuế như vậy, và trong khi Tobin tập trung vào các lý do kinh tế để đánh thuế các dòng tiền nóng đầu cơ , thì những lý do khác sau đó lại tập trung vào các nguyên nhân tích cực toàn cầu có thể được tài trợ từ nguồn thu từ thuế.
Vì doanh thu hàng ngày trên thị trường ngoại hối quá chênh lệch so với tất cả các hình thức hoạt động kinh tế khác, nên ngay cả thuế giao dịch tiền tệ nhỏ nhất cũng sẽ thu về một khoản tiền khổng lồ. Những người ủng hộ việc thực hiện một loại thuế như vậy vì lý do xã hội lập luận rằng nó sẽ cung cấp một phương tiện phân phối lại toàn cầu, giúp giải quyết nạn nghèo tại nguồn. Bất chấp những lo ngại về khả năng thực thi thuế, doanh thu của nó sẽ cho phép đạt được bất kỳ mục tiêu phát triển nào. Ngoài ra, thuế Tobin cũng sẽ hoạt động như một cơ chế phòng vệ chống lại hoạt động đầu cơ gây bất ổn trên thị trường ngoại hối . Như cuộc khủng hoảng tài chính châu Ávào cuối những năm 1990 đã chứng minh một cách rõ ràng như vậy, toàn bộ hệ thống kinh tế có thể trở thành mồi ngon cho các tác động của giao dịch theo động lực, theo đó việc mất niềm tin vào một loại tiền tệ có thể dẫn đến sự sụp đổ kinh tế bán buôn.
Bên cạnh đó các lí do được đưa ra thì không phải lí do dể Tobin ủng hộ việc áp thuế giao dịch tiền tệ. Mối quan tâm của Tobin là các nhà hoạch định chính sách có thể xác định chính sách trong bối cảnh không bị xáo trộn bởi dòng tiền nóng gây bất ổn cho đồng nội tệ. Do đó, thuế thể hiện một phương tiện kích hoạt lại lĩnh vực hoạch định chính sách tự trị . Tobin điều chỉnh lập luận của mình chủ yếu cho phù hợp với lập trường của các nước đang phát triển. Ông mong muốn thấy các nước đang phát triển hội nhập đầy đủ hơn vào các động lực của thương mại quốc tếvà sử dụng chính sách công để giảm đầu cơ đối với tiền tệ của họ đã hỗ trợ mục tiêu này. Vào thời điểm mà Tobin đang viết, vào nửa sau của thế kỷ 20, áp lực đầu cơ đối với tiền tệ của các nước đang phát triển tỏ ra đặc biệt khó cưỡng lại, điều này làm tăng thêm mức độ rủi ro tỷ giá hối đoái đáng kể , và do đó làm suy yếu các mối quan hệ thương mại của họ với các nước khác.
Loại thuế này ta thấy nó sẽ hạn chế đầu cơ tiền tệ, nhưng nó cũng làm giảm tính thanh khoản của thị trường vì thế những giao dịch lớn như mua lại các công ty tầm cỡ sẽ có sức ảnh hưởng lớn hơn đối với tỷ giá hối đoái. Thuế này có thể được đối trọng với việc thường xuyên sử dụng nguồn dự trữ quốc gia, vì tiền tệ giao dịch của các tập đoàn lớn chẳng hạn thường được lấy từ nguồn dự trữ quốc gia, nhưng điều này sẽ thay đổi đáng kể cách quản lý thị trường tiền tệ, và không có dấu hiệu gì cho thấy các cơ quan chức năng sẵn sàng nhận thêm trách nhiệm này.
Đối với loại thuế dạng Tobin thì lại khác. Trong quá trình toàn cầu hóa các thị trường tài chính đã mang lại cho nguồn vốn tài chính lợi thế hơn so với những nguồn lực bị đánh thuế khác, vì vậy một loại thuế đánh vào các giao dịch tài chính sẽ khôi phục thế cân bằng. Tại sao có Thuế Giá trị Gia tăng (VAT) cho các giao dịch mua bán, mà lại không có thuế cho các giao dịch tài chính? Trên cơ sở này, thuế phải được áp chung cho tất cả các thị trường tài chính, chứ không chỉ đánh vào thị trường tiền tệ. Có nhiều vấn đề nghiêm trọng trong quá trình thực hiện nhưng vẫn có thể giải quyết được. Chẳng hạn như: làm sao tính thuế cho các công cụ tổng hợp và phái sinh? Nghe có vẻ là vấn đề gai góc nhưng thực chất rất dễ vượt qua.
3. Cách thức áp dụng thuế Tobin:
Thuế giao dịch tiền tệ không ảnh hưởng đến việc đầu tư dài hạn. Nó chỉ được áp dụng nếu có quá nhiều dòng tiền di chuyển thường xuyên giữa các thị trường tài chính thông qua các hành động của các nhà đầu cơ muốn tìm kiếm khoản lời cao trong ngắn hạn. Thuế được chi trả bởi các ngân hàng và tổ chức tài chính thu lợi từ sự biến động của thị trường bằng cách đảm nhận các vị thế đầu cơ trong ngắn hạn một cách quá mức trên thị trường tiền tệ.
Theo Tobin, để hoạt động hiệu quả thì một loại thuế như vậy nên được áp dụng trên phạm vi quốc tế và có tính thống nhất, số tiền thu được sẽ quyên góp cho các nước đang phát triển. Mặc dù Tobin đề xuất tỉ lệ thuế là 0,5%, tuy nhiên các nhà kinh tế khác đã đưa ra tỉ lệ trong khoảng từ 0,1% đến 1%. Nhưng ngay cả ở mức tỉ lệ thấp đi chăng nữa, mọi giao dịch tài chính diễn ra trên toàn cầu khi áp dụng thuế này sẽ đem lại doanh thu đến hàng tỉ đồng.
Từ đó chúng ta thấy với mục đích đầu tiên đối với việc áp thuế Tobin đã bị sai lệch trong nhiều năm qua bởi các quốc gia thực hiện nó. Đề xuất thuế Tobin ban đầu đối với giao dịch tiền tệ là nhằm hạn chế sự mất ổn định của dòng vốn qua biên giới, điều này lại khiến cho các quốc gia khó thực hiện chính sách tiền tệ độc lập bằng cách chuyển tiền qua lại một cách nhanh chóng giữa các quốc gia có lãi suất khác nhau.