Có vị trí địa lý chiến lược cả về quân sự, kinh tế chính trị, Việt Nam luôn là đối tượng nhòm ngó của các nước đế quốc. Thực dân Pháp cũng là một trong số đó. Trước sự tàn bạo của thực dân Pháp nhân dân ta đã đứng lên đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Quá trình đó diễn ra như thế nào chúng hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Mục đích thực dân Pháp xâm lược Việt Nam:
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác – Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra thời đại mới – thời đại cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga đã trở thành một tấm gương sáng trong sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3 năm 1919 đã thúc đẩy phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1858, thực dân Pháp mở cuộc tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến Việt Nam từ một nước phong kiến thành trả thành một quốc gia nửa thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị: Thực dân Pháp áp đặt ách thống trị thuộc địa, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba khu vực để thuận tiện cho việc thiết lập bộ máy cái trị, ba khu vực đó bao gồm: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam kỳ, ở mỗi khu vực sẽ có một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ bóc lột về kinh tế và đàn áp chính trị nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế: Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, chiếm đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, hải cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hóa: Thực dân Pháp triệt để thực hiện chính sách nô dịch về văn hóa, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của Nhân dân ta đều bị ngăn cấm. Chúng tìm mọi cách bao che, ngăn cản ảnh hưởng của các nền văn hóa tiên tiến trên thế giới du nhập vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị. Tình hình giai cấp và những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam.
Dưới ảnh hưởng của chế độ thực dân và các chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội Việt Nam đã trải qua sự phân hóa sâu sắc. Giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức dân cày. Tuy nhiên, trong nội bộ giới chủ đất Việt Nam lúc này đã có sự chia rẽ. Một bộ phận địa chủ yêu nước, căm thù chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Cảnh ngộ khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam càng hun đúc lòng căm thù đế quốc, phong kiến và ý chí cách mạng trong đấu tranh giành lại ruộng đất, quyền sống tự do. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, phần lớn xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp, gắn bó với giai cấp nông dân, bị đế quốc xâm lược, bị phong kiến áp bức, bóc lột. Giai cấp tư sản Việt Nam bị giai cấp tư sản Pháp áp bức và chịu sự cạnh tranh gay gắt từ phía giai cấp tư sản Trung Quốc nên thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ yếu, tinh thần dân tộc và tinh thần yêu nước ở mức độ nhất định. Giai cấp tiểu tư sản ở Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, lao động tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản, trở thành những người vô sản, yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân,… có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người mất nước, bị thực dân áp bức, bóc lột ở mức độ khác nhau. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, bên cạnh mâu thuẫn cơ bản giữa nông dân và giai cấp địa chủ, phong kiến thì còn mâu thuẫn giữa toàn dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho Nhân dân; Thứ hai, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho Nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Vậy nhìn chung, mục đích mà thực dân pháp xâm lược Việt Nam đó là nhằm biến Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp để thực hiện việc vơ vét tài nguyên thiên nhiên và bóc lột sức người, sức của của những người lao động nghèo khổ Việt Nam.
2. Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam khi nào?
Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha gồm 16 tàu chiến được trang bị vũ khí hiện đại nhất, đại bác đều là loại có sức công phá lớn và khả năng sát thương cao, mở cuộc tấn công Đà Nẵng. Ngay ngày đầu tiên nổ súng, hầu hết các chốt phòng thủ của ta ở phía Đông sông Hàn đều bị hạ. Sáng hôm sau (2-9-1858), giặc tiếp tục bắn phá thành Điện Hải và đổ quân đánh chiếm khu phía Tây. Quân triều đình vừa đánh vừa rút dần, lập phòng tuyến phía tây nam Hòa Vang để ngăn địch. Diễn biến trận đánh cho thấy địch không phát huy được sức mạnh binh khí kỹ thuật để tấn công ồ ạt, mà bị chặn ngay cửa biển Đà Nẵng. Đây là kết quả của sự chống trả quyết liệt của nghĩa quân dưới sự chỉ huy của một triều đình còn hừng hực sức sống, với quyết tâm cao và sự đoàn kết của toàn dân. Ngoài quân chủ lực của triều đình còn có sự tham gia của lực lượng thủy quân địa phương và dân binh. Như vậy ngày từ khi thực dân Pháp nổ súng bắt đầu xâm lược nước ta (1858), chúng đã gặp phải sự chống trả quyết liệt từ phía nhân dân ta. Các cuộc chiến tranh của nhân dân ta từ đó trở đi ngày càng mạnh mẽ.
3. Diễn biến cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp:
Sáng 1/9/1858, thực dân Pháp và Tây Ban Nha nổ súng ở bán đảo Sơn Trà Đà Nẵng, chính thức xâm lược nước ta. Sáng hôm sau (2-9-1858), địch tiếp tục pháo kích tấn công thành Điện Hải và đổ quân đánh chiếm khu vực phía tây. Lực lượng quân triều đình vừa đánh, vừa lui dần, lập phòng tuyến phía tây nam Hòa Vang để ngăn địch. Mặc dù quân địch mạnh, nhưng với tinh thần quyết tâm của nhân dân ta cùng với việc thực hiện kế sách vườn không nhà trống, thực dân Pháp đã bị sa lầy ở Đà Nẵng.
Thất bại với âm mưu đánh nhanh thắng nhanh ở Đà Nẵng, tháng 2-1859 chúng kéo vào Gia Định.Ngày 17/2/1859,chúng tấn công thành Gia Định.Quân triều đình chống trả yếu ớt mạc dù có rất nhiều binh khí, lương thảo. Rạng sáng ngày 24/2/1861,quân Pháp mở cuộc tấn công quy mô lớn vào Đại đồn Chí Hòa.Quân ta chống cự quyết liệt nhưng không thắng nổi sức mạnh của chúng. Thừa thắng chúng lần lượt chiếm các tỉnh Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long.
Ngày 19/8/1883, thời diễn biến theo hướng bất lợi cho quân Pháp. Nhân cơ hội đó, các khẩu đội pháo của quân triều đình đã tấn công phủ đầu, tạo thế áp đảo cho quân Pháp, tàu chiến Pháp chỉ bắn trả chứ không chủ động tấn công. Quân đội triều đình có nhiều thời gian hơn để củng cố công sự chiến đấu và bổ sung pháo binh.
Nhưng trước sức mạnh quân sự áp đảo, sáng 20/3/1883, quân Pháp tổ chức lại quân đội, nã pháo đến chiều thì cho hơn 1.000 quân đổ bộ. Các đồn binh lần lượt thất thủ, đến chiều tối quân Pháp chiếm được Thuận An.
Các thủ Thuận An là Lê Sỹ, Lê Chuẩn đều tử trận, Lâm Hoàng, Nguyễn Trừng tự tử.
Trong trận chiến bảo vệ cửa ải Kinh thành Huế tại cửa Thuận An, quân triều đình đã hy sinh hàng trăm người, tập trung chủ yếu ở trấn thủ Trấn Hải. Những người bảo vệ Thuận An đã nằm xuống trong giờ phút cuối cùng của nền độc lập dân tộc dưới triều Nguyễn, trong tư thế của những người anh hùng quyết đánh Pháp, lấy thân trả nợ.
Nghe tin Thuận An thất thủ, vua Hiệp Hòa vô cùng lo sợ, vội sai người xin đình chiến, buộc các sứ quân phải rút khỏi đồn, nhổ bỏ vật chướng trên sông Hương. Quyết định hòa hoãn của vua Hiệp Hòa đã làm cho các sứ quân bất mãn, nhưng họ đành bất lực. Tôn Thất Thuyết làm phản, đem cờ và Ngự bài về dâng vua, Ông Ích Khiêm giận định tiêu diệt nghĩa quân (khoảng 700 người).
Thuận An thất thủ, triều đình Huế phải ký hòa ước Harmand ngày 25/8/1883 gồm 27 điều công nhận Pháp bảo hộ toàn cõi Việt Nam, Pháp có quyền kiểm soát ngoại giao đối với cả nước. Việt Nam chính thức bị chia thành ba thời kỳ với ba chế độ phụ thuộc khác nhau.
4. Kết quả:
Với hiệp định này, thực dân Pháp mong muốn nhân dân ta phải buông vũ khí đầu hàng chúng. Tuy nhiên, nhân dân cả nước vẫn không buông vũ khí, ngay trong triều đình Tôn Thất Thuyết và phe chủ chiến vẫn nung nấu ý chí đánh Pháp.
Chấp nhận ký Hiệp ước Harmand, vua Hiệp Hòa đã đi chệch khỏi đường lối bảo vệ đất nước của các sứ quân và nguyện vọng của nhân dân nên bị phế truất sau 4 tháng lên ngôi. Chính sách hòa hoãn và đầu hàng của vua Hiệp Hòa suýt biến triều đình Huế thành một bộ máy cai trị thân Pháp, nhưng nỗ lực của Tôn Thất Thuyết và phe chủ chiến đã kịp thời ngăn chặn hiểm họa đó.
5. Ý nghĩa:
Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã một lần nữa khẳng định sự suy thoái, mục rữa của triều đình nhà Nguyễn trong việc cai quản, bảo vệ đất nước. Chế độ phong kiến đã không thể tồn tại ở Việt Nam được nữa.
Tuy thất bại nhưng cuộc đấu tranh cũng cho thấy tinh thần yêu nước của nhân dân ta lúc nào cũng luôn sục sôi. Dù triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng, giao nước cho giặc nhưng phong trào đấu tranh của nhân dân ta vẫn luôn sục sôi, diễn ra khắp nơi trên cả nước với mong muốn giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
Qua đó cũng thấy được, chúng ta cần phải tìm ra một con đường cứu nước mới, cần có người lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam để nhân dân tiến lên đấu tranh giành thắng lợi cho dân tộc. Không thể để thực dân Pháp chà đạp lên độc lập dân tộc, để người dân ta bị rơi vào cảnh nô lệ, đầy tớ.