Trong sản xuất và kinh doanh hiện nay ta thấy với số thời gian lao động xã hội cần thiết là vấn đề rất quan trọng vì thông qua đó có thể quyết định được sản xuất bao nhiêu của cải vật chất để duy trì số lượng sản phẩm cụ thể. Vậy thời gian lao động xã hội cần thiết là gì? Công thức tính và đặc trưng?
Mục lục bài viết
1. Thời gian lao động xã hội cần thiết là gì?
Thời gian lao động xã hội cần thiết trong tiếng Anh được gọi là Socially necessary labour time.
Chắc hẳn chúng ta đã được biết rất nhiều về thuật ngữ thời gian lao động sản xuất của cải vật chất cần thiết để duy trì đời sống của bản thân người lao động và gia đình họ. Lao động hao phí trong thời gian đó là lao động cần thiết. Bộ phận thời gian đó bằng thời gian người lao động tái sản xuất ra giá trị sức lao động của mình. Ngoài thời gian lao động xã hội cần thiết số còn lại là thời gian lao động thặng dư tạo ra sản phẩm thặng dư cho nhà tư bản (dưới chế độ tư bản chủ nghĩa) hoặc cho toàn xã hội (dưới chế độ xã hội chủ nghĩa). Thời gian lao động xã hội cần thiết có xu hướng rút ngắn lại do năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên.
2. Công thức tính và đặc trưng của thời gian lao động xã hội cần thiết:
Như chúng ta đã biết thì với khoảng thời gian lao động xã hội cần thiết chính là mức hao phí lao động xã hội trung bình cụ thể với thời gian lao động xã hội trung bình để sản xuất ra hàng hóa. Như ta thấy thì với thời gian lao động xã hội cần thiết được biết tới là gần với thời gian lao động cá biệt cụ thể với mức hao phí lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa nào cung cấp đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.
Như chúng ta đã biết với khoảng thời gian lao động xã hội cần thiết chúng ta hiểu thời gian này chính là một đại lượng cụ thể nào đó không cố định vì rằng trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện trang bị kỹ thuật trung bình của xã hội ở mỗi nước khác nhau là khác nhau có nước phát triển, có nước chậm phát triển và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính vì thế nên khi thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi có thể là cao hay thấp thì lượng giá trị của hàng hóa cũng sẽ thay đổi.
Như vậy nên từ các thông tin như trên ta thấy hiên nay với khoảng thời gian lao động cần thiết là thời gian để tồn tại của giá trị con người…quyết định hành động mà con người được đánh giá cùng tồn tại với giá trị đó
Bên cạnh đó một yếu tố quan trọng đó là về giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Cũng theo đó nên ta thấy rằng với lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao động.
Trong một số trường hợ cụ thể nếu như vậy thì người ta có thể hiểu nhầm vấn đề này là người sản xuất ra hàng hóa càng lười biếng hay càng vụng về bao nhiêu thì lượng giá trị hàng hóa của anh ta lại càng lớn bấy nhiêu.
Như vậy nếu trong trường hợp cụ thể người nào đó mà càng phải dùng nhiều thời gian hơn để sản xuất ra hàng hóa đó. ở đây, lao động tạo thành thực thể của giá trị, là thứ lao động giống nhau của con người, là chi phí của cùng một sức lao động của con người; nó có tính chất của một sức lao động xã hội trung bình…
Như vậy ta có thể thấy hiện nay để sản xuất ra một hàng hóa nhất định, chỉ cần dùng một thời gian lao động trung bình cần thiết hoặc thời gian lao động xã hội cần thiết.
Điều đó cũng có nghĩa là, trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hóa, nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau, do đó thời gian lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó là khác nhau, tức là có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau.
Trên thực tế chúng ta có thể thấy với mức thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.
Nếu theo quan sát thực tế thì thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt cụ thể đó là với mức hao phí lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa nào cung cấp đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.
Như chúng ta đã biết hiện nay với thời gian lao động xã hội cần thiết chung ta đã tìm hiểu nó cụ thể là một đại lượng không cố định, vì trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện trang bị kĩ thuật trung bình của xã hội ở mỗi nước khác nhau là khác nhau và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Theo đó nên ta có thể thấy chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết cũng có thể là với thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa, mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hóa ấy.
3. Ý nghĩa của thời gian lao động xã hội cần thiết:
Khái niệm này dùng để bổ sung, giải thích cho khái niệm giá trị của hàng hóa. Theo đó, giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Theo đó ta thấy với lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó và lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao động.
Như chúng ta đã biết với vấn đề dùng đại lượng thời gian lao động để đo giá trị của sản phẩm, hàng hóa có thể dẫn đến mâu thuẫn và gây ngộ nhận rằng người sản xuất ra hàng hóa hay người lao động càng làm biếng hay càng vụng về bao nhiêu thì lượng giá trị hàng hóa của anh ta lại càng lớn bấy nhiêu, vì anh ta càng phải dùng nhiều thời gian hơn để sản xuất ra hàng hóa đó. Như vậy sẽ dẫn đến trường hợp một người làm việc chậm chạp, lê mề, làm việc mất thời gian thì hàng hóa của anh ta tạo ra sẽ có giá trị lớn (vì giá trị là thời gian lao động hao phí, thời gian hao phí càng nhiều thì giá trị càng lớn?)
Cũng theo đó dựa trên tư tưởng do Các Mác mới đưa ra định nghĩa và chúng ta biết tới Lao động xã hội cần thiết để giải thích cụ thể, theo đó lao động tạo thành thực thể của giá trị là thứ lao động giống nhau của con người và là chi phí của cùng một sức lao động của con người cho nên nó có tính chất của một sức lao động xã hội trung bình.
Như vậy chúng ta hiểu đơn giản từ trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hóa, nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau, do đó thời gian lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó là khác nhau, tức là có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau. Theo đó ta thấy với số lượng giá trị của hàng hóa cụ thẻ nó sẽ không phải do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định, mà nó được đo bởi thời gian lao động xã hội cần thiết.
Trên thực tế ta thấy nếu chúng ta tiên hành các hoạt động khi mua bán, mặc cả một loại hàng hóa thì yếu tố thời gian lao động hao phí tạo ra là một trong những yếu tố quyết định đến giá trị của hàng hóa, tuy nhiên thời gian này không phụ thuộc vào định giá của người bán (căn cứ vào thời gian mà họ hao phí để sản xuất) mà sẽ do người mua (cùng người bán) đánh giá giá trị thực dựa trên căn cứ chung trong toàn xã hội (giá thị trường) để trả giá. Theo đó đối với trường hợp cụ thể nếu người sản xuất muốn có các nguồn lợi nhất định thì họ phải rút ngắn thời giao lao động của họ xuống càng thấp với thời gian lao động cần thiết (tính theo mặt bằng chung của xã hội hay vùng miền) để dồi ra phần giá trị chênh lệch giữa thời gian lao động xã hội cần thiết đó với thời gian lao động thực tế của họ (đã rút ngắn).