Thiểu phát là gì? Đặc điểm của thiểu phát? Nguyên nhân của thiểu phát? Ví dụ về thiểu phát?
Lạm phát và thiểu phát là bạn đồng hành của nền kinh tế thị trường. Lạm phát và thiểu phát đã có tác động trực tiếp và gián tiếp đến toàn bộ các linh vực hoạt động của chính phủ, các doanh nghiệp và cá nhân, các quan hệ kinh tế đối nội và đối ngoại của quốc gia và tác động đến tình hình trong khu vực và trên thế giới với mức độ tùy theo vị thế kinh tế chính trị mà nước đó đảm nhận trong khu vực và trên thế giới. Giữa lạm phát và thiếu phát có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng nội dung giữa chúng lại có sự khác biệt.
Mục lục bài viết
1. Thiểu phát là gì?
Nhiều người biết rằng “lạm phát” là sự gia tăng mặt bằng giá chung. Nhiều người cũng biết rằng “Giảm phát” là mức giá chung giảm xuống – nghĩa là, tỷ lệ lạm phát là âm. Nhưng ít người hơn quen thuộc với con đường từ lạm phát đến giảm phát: thiểu phát, một tình huống trong đó tỷ lệ lạm phát đang giảm xuống. Giống một người chạy chậm lại nhưng vẫn tiến về phía trước, khi ở đó là thiểu phát, giá có thể vẫn tăng, chỉ với tốc độ chậm hơn so với trước đây.
Thiểu phát là sự giảm tỷ lệ lạm phát trong một khoảng thời gian nhất định. Không nên nhầm lẫn với thiểu phát là một sự giảm giá chung. Trong thời kỳ thiểu phát, giá cả tiếp tục tăng, nhưng với tốc độ chậm hơn so với thời kỳ trước đó. Tỷ lệ lạm phát vẫn ở mức dương. Các hộ dân tiếp tục mất sức mua.
Thiểu phát có thể là tin tốt hoặc tin xấu. Nó là một tốt nếu nó đến từ sự gia tăng năng suất và công nghệ, giống như những thứ đã giúp giữ lạm phát ở mức thấp vào cuối những năm 1990. Thông thường hơn, giảm phát được mang lại bởi chính sách của Fed. Trong những đợt như vậy, giảm phát là có chủ đích và được hoan nghênh. Đây là trường hợp đặc biệt trong giai đoạn giảm phát thuận lợi nhất trong Fed’s lịch sử: đầu những năm 1980, khi lạm phát (được đo bằng sự thay đổi qua từng năm trong chi tiêu tiêu dùng cá nhân chỉ số giá) giảm từ hơn 11% vào đầu năm 1980 đến mức trung bình khoảng 3,5% vào năm 1985. Mặc dù lạm phát cao không phải là một vấn đề vì mục tiêu thắt chặt tiền tệ hơn chính sách nói chung là sản xuất khiêm tốn khử lạm phát để đưa lạm phát đến gần hơn mục tiêu của ngân hàng trung ương.
Sự khác biệt giữa thiểu phát và giảm phát
Thiểu phát và giảm phát là khác nhau. Giảm phát là sự suy giảm của mặt bằng giá cả. Mặt khác, thiểu phát là giảm lạm phát. Thực tế mức giá tăng trong điều kiện thiểu phát, nhưng tốc độ tăng đó lại giảm đi. Trong điều kiện giảm phát, giá cả đang giảm xuống nhưng trong điều kiện thiểu phát, lạm phát sẽ giảm xuống.
2. Đặc điểm của thiểu phát:
– Giảm phát là sự chậm lại tạm thời của tốc độ lạm phát giá cả và được sử dụng để mô tả các trường hợp khi tỷ lệ lạm phát giảm nhẹ trong thời gian ngắn hạn. Không giống như lạm phát và giảm phát đề cập đến hướng đi của giá cả, giảm phát đề cập đến tốc độ thay đổi của tỷ lệ lạm phát.
– Cần phải có một lượng giảm lạm phát lành mạnh, vì nó ngăn nền kinh tế phát triển quá nóng. Mối nguy hiểm mà thiểu phát thể hiện là khi tỷ lệ lạm phát giảm xuống gần bằng 0, như đã từng xảy ra vào năm 2015, làm dấy lên bóng ma giảm phát.
– Mặc dù giảm phát và giảm phát liên quan nhưng không đồng nghĩa với nhau, trong khi giảm phát tương ứng với việc giảm mức giá chung trong nền kinh tế, nhưng ngược lại, thiểu phát có nghĩa là tốc độ tăng giá hoặc lạm phát chậm lại. Vì vậy, sự gia tăng mặt bằng giá chung trong nền kinh tế với tốc độ tương đối chậm hơn hoặc giảm tốc trong ngắn hạn được gọi là thiểu phát trong khi giảm phát hoàn toàn ngược lại với lạm phát. Một trong hai thái cực, việc tăng giá bất thường cũng như giảm giá có thể gây tổn hại cho nền kinh tế và khó quản lý đối với các nhà hoạch định chính sách.
– Giống như lạm phát, người ta đo lường thiểu phát bằng cách sử dụng chỉ số giá. Chỉ số được trích dẫn nhiều nhất là chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Một giải pháp thay thế là chỉ số giá sản xuất hoặc chỉ số giảm phát GDP.
Chỉ số lạm phát CPI đo lường sự thay đổi trong giá trung bình của hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Đây là một trong những thước đo nền kinh tế được giám sát nhiều nhất bởi các nhà đầu tư và các ngân hàng trung ương. Công ty cũng giám sát nó, đặc biệt là để điều chỉnh các thành phần chi phí (chẳng hạn như tiền lương) và giá bán của nó.
– Thiểu phát không đánh dấu sự khởi đầu của một nền kinh tế đang chậm lại và trạng thái này được coi là bình thường trong thời kỳ kinh tế lành mạnh. Mặt khác, khi có mối đe dọa rằng một nền kinh tế có thể đối mặt với tình trạng giảm phát, ngân hàng trung ương sẽ hạ lãi suất một cách quyết liệt để thúc đẩy nhu cầu và do đó làm tăng mặt bằng giá. Và, tình trạng giảm phát được coi là gây thiệt hại lớn vì trong tình huống như vậy, người tiêu dùng có xu hướng trì hoãn việc mua hàng của họ, điều này càng làm giảm mức giá xuống.
– Hậu quả của thiểu phát
Việc thực hiện chính sách thiểu phát cạnh tranh có lợi trong ngắn hạn đối với các tác nhân kinh tế. Đối với các hộ gia đình, đó là một cách để làm chậm sự suy giảm sức mua của họ, khi giá hàng hóa và dịch vụ tăng chậm hơn.
Đối với các công ty, thiểu phát có thể khiến việc ngừng tăng lương ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh về giá của họ. Một cách hiệu quả, để bù đắp cho việc tăng lương, các công ty tăng giá để giữ lợi nhuận của họ. Đối với các công ty Pháp, đây không phải là vấn đề. Mặt khác, đối với các công ty xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, việc tăng giá này làm giảm khả năng cạnh tranh của họ. Sau đó, họ có thể quyết định cắt giảm tỷ suất lợi nhuận của mình hoặc có nguy cơ mất thị phần bằng cách tăng giá của họ.
Thiểu phát giải quyết vấn đề nan giải này. Do đó, nó có những tác động tích cực trong ngắn hạn đối với tất cả các tác nhân kinh tế. Về lâu dài, hậu quả của giảm phát còn tồi tệ hơn nhiều. Về mặt hiệu quả, những mức lãi suất cao hơn này để chống lạm phát có tác dụng làm chậm lại hoạt động kinh tế. Các hộ gia đình tiêu dùng ít hơn vì chi phí tín dụng cao hơn. Đối mặt với tình trạng tiêu thụ giảm, các công ty giảm đầu tư, thúc đẩy suy thoái kinh tế. Về lâu dài, chính sách giảm phát cạnh tranh do đó có thể dẫn đến suy thoái kinh tế và giảm phát.
3. Nguyên nhận của thiểu phát:
Thiểu phát là do một số yếu tố khác nhau gây ra. Suy thoái hoặc thu hẹp chu kỳ kinh doanh có thể dẫn đến giảm phát. Nó cũng có thể được gây ra bởi việc thắt chặt chính sách tiền tệ của một ngân hàng trung ương. Khi điều này xảy ra, chính phủ cũng có thể bắt đầu bán một số chứng khoán của mình và giảm lượng tiền cung ứng. Cụ thể hơn:
Ngân hàng trung ương có thể thực hiện chính sách thiểu phát cạnh tranh trong trường hợp lạm phát đạt mức quá cao. Trong thời kỳ mở rộng kinh tế, tăng trưởng kinh tế thường đi kèm với lạm phát tăng dần. Lạm phát này là tự duy trì. Về mặt hiệu quả, khi tiền lương được xác định (trực tiếp hoặc gián tiếp) với tỷ lệ lạm phát, giá càng cao thì tiền lương càng cao. Để bù đắp cho việc tăng lương, các công ty tăng giá, điều này làm phát sinh thêm lạm phát.
Do đó, để tránh phát triển quá nóng nền kinh tế, ngân hàng trung ương có thể quyết định áp dụng chính sách thiểu phát cạnh tranh. Mục tiêu là hạn chế khả năng tiếp cận tín dụng và giảm tốc độ tăng cung tiền. Để làm được điều này, ngân hàng trung ương có một công cụ rất hữu hiệu là lãi suất. Bằng cách tăng tỷ lệ chủ chốt, tỷ lệ lạm phát ban đầu sẽ ổn định trước khi giảm dần (về lý thuyết). Nếu tỷ lệ lạm phát giảm nhưng vẫn ở mức dương, thì chúng ta bước vào thời kỳ giảm phát.
Nguyên nhân khác dẫn đến thiểu phát có thể do ăng trưởng GDP thực tế chậm lại do tổng cầu suy yếu. Người sản xuất cố gắng hợp lý hóa tỷ lệ sản xuất của họ để phù hợp với nhu cầu. Ngoài ra, tính trung bình, các nhà sản xuất có khả năng tăng giá bán ở mức vừa phải hơn so với trước đây.
Trong một số trường hợp, tỷ lệ lạm phát chậm lại cũng có thể xảy ra khi bắt đầu suy thoái kinh tế (thu hẹp). Mặt bằng giá đang chịu áp lực giảm trong giai đoạn này. Nó chỉ có thể làm chậm tỷ lệ lạm phát hơn là giảm phát. Tuy nhiên, nếu suy thoái sâu hơn, giảm phát có nhiều khả năng xuất hiện hơn.
4. Ví dụ về thiểu phát:
Thiểu phát ở Ấn Độ.
Từ năm 2012 đến năm 2014, CPI toàn Ấn Độ gần đây nhất ở mức gần hai con số, trung bình là 10,1% trong năm 2012-13 và 9,8% trong năm 2013-14. Nhưng đã có một sự sụt giảm nghiêm trọng kể từ đó. Trong năm 2014-15, lạm phát trung bình giảm xuống 6%, giảm 400 bps so với hai năm trước đó. Và nó thấp hơn 140 bps cho đến nay trong giai đoạn 2015-16, trung bình là 4,6% trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 10.
Được đo lường bằng mức tăng trưởng hàng quý hàng năm của chỉ số giá tiêu dùng được điều chỉnh theo mùa, đà tăng của lạm phát cũng giảm từ 12,9% trong quý cuối cùng của năm 2013 xuống chỉ còn 2,9% so với quý trước, tỷ lệ hàng năm được điều chỉnh theo mùa (SAAR) từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2015.