Thặng dư xảy ra khi giữa cung và cầu cho một sản phẩm lại mất kết nối với nhau, hoặc khi một số người chủ thể sẵn sàng chi trả nhiều tiền hơn cho một sản phẩm so với những người khác. Nhiều chủ thể vẫn chưa hiểu rõ về thặng dư.
Mục lục bài viết
1. Thặng dư là gì?
Khái niệm thặng dư:
Thặng dư là một khái niệm được sử dụng để mô tả số lượng tài sản hoặc tài nguyên vượt quá phần được sử dụng hiệu quả.
Khoản thặng dư có thể đề cập đến các hạng mục khác nhau, bao gồm thu nhập, lợi nhuận, vốn và hàng hóa.
Trong ngữ cảnh hàng tồn kho, thặng dư được dùng nhằm để mô tả các sản phẩm vẫn còn tồn đọng trên các kệ hàng, và không được mua.
Trong ngữ cảnh ngân sách, thặng dư xảy ra khi thu nhập kiếm được vượt quá chi phí phải trả. Thặng dư ngân sách cũng có thể đề cập đến chính phủ khi doanh thu thuế vẫn còn sau tất cả các chương trình tài trợ của chính phủ.
Thặng dư trong tiếng Anh là Surplus.
2. Đặc điểm của thặng dư:
Thặng dư trên thực tế không phải là lúc nào cũng được mong muốn xảy ra.
Ví dụ cụ thể khi một nhà sản xuất dự kiến quá mức nhu cầu trong tương lai cho một sản phẩm nhất định có thể tạo ra quá nhiều đơn vị sản phẩm chưa bán được, điều này gây ra thặng dư hàng hóa, ảnh hưởng đến tổn thất tài chính hàng quý hoặc hàng năm.
Sự dư thừa của hàng hóa dễ hỏng cụ thể như ngũ cốc có thể gây ra tổn thất vĩnh viễn vì nó không thể bán được.
Thặng dư kinh tế:
Có hai loại thặng dư kinh tế: đó là thặng dư tiêu dùng (Consumer surplus) và thặng dư sản xuất (Producer surplus).
– Thặng dư tiêu dùng được hiểu là thước đo kinh tế về lợi ích của người tiêu dùng, xảy ra khi giá mà người tiêu dùng phải trả cho một sản phẩm, dịch vụ thấp hơn so với giá họ sẵn sàng trả.
Thặng dư tiêu dùng xảy ra khi giá của sản phẩm hoặc dịch vụ thấp hơn giá cao nhất mà người tiêu dùng sẵn sàng trả.
Ví dụ trong cuộc đấu giá bức tranh, trong đó người mua giữ trong đầu mình một giới hạn về giá mà họ sẽ không trả vượt quá. Thặng dư tiêu dùng xảy ra nếu người mua này mua bức tranh với giá thấp hơn giới hạn định trước của mình.
Trong một ví dụ cụ thể khác, giả sử giá mỗi thùng dầu giảm, khiến giá xăng giảm xuống dưới mức giá mà một tài xế đã quen đổ xăng. Trong trường hợp cụ thể này, lợi nhuận của các chủ thể là người tiêu dùng có được chính là thặng dư tiêu dùng.
– Thặng dư sản xuất là chênh lệch giữa tổng doanh thu mà người bán nhận được từ việc bán một lượng hàng hóa nhất định và tổng chi phí biến đổi để sản xuất số hàng hóa đó.
Trong đó:
+ Chi phí biến đổi là những chi phí thay đổi khi mức sản lượng thay đổi.
+ Tổng doanh thu là tổng sản lượng hàng hóa bán ra nhân với giá bán trên mỗi đơn vị sản phẩm.
Tổng chi phí biến đổi được đo bằng diện tích bên dưới đường cung. Đường cung thể hiện mức giá thấp nhất mà người bán sẽ sẵn sàng chấp nhận cho mỗi đơn vị hàng hóa bán thêm. Đây là chi phí sản xuất đơn vị tiếp theo, được gọi là chi phí cận biên.
Thặng dư sản xuất sẽ xảy ra khi hàng hóa được bán với giá cao hơn giá thấp nhất mà nhà sản xuất sẵn sàng bán.
Trong bối cảnh đấu giá tương tự, nếu một nhà đấu giá đặt giá mở cửa ở mức giá thấp nhất, họ sẽ thoải mái bán một bức tranh, thặng dư nhà sản xuất xảy ra nếu người mua tạo ra một cuộc chiến đấu thầu, khiến mặt hàng được bán với giá cao hơn, vượt xa giá mở cửa tối thiểu.
Theo quy luật, thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất sẽ loại trừ lẫn nhau, trong đó cái mang lại lợi ích cho cái này thì mang lại thiệt hại cho cái kia.
3. Lý do thặng dư xảy ra:
Thặng dư xảy ra khi giữa cung và cầu cho một sản phẩm mất kết nối với nhau, hoặc khi một số người sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho một sản phẩm hơn những người khác.
Theo giả thuyết, nếu có một mức giá định sẵn cho một con búp bê nổi tiếng nào đó, rằng mọi người đều nhất trí và sẵn sàng trả tiền, thì sẽ không xảy ra thặng dư hay thiếu hụt.
Nhưng điều này trên thực tế rất hiếm khi xảy ra trong thực tế, bởi vì nhiều người và doanh nghiệp có ngưỡng giá khác nhau, cả khi mua và bán.
Những chủ thể là các nhà cung cấp liên tục cạnh tranh nhau để cho ra càng nhiều sản phẩm càng tốt, với giá tốt nhất. Nếu nhu cầu về sản phẩm tăng đột biến, nhà cung cấp đưa ra mức giá thấp nhất có thể hết nguồn cung, điều này có xu hướng dẫn đến tăng giá chung trên thị trường, gây ra thặng dư sản xuất.
Điều ngược lại sẽ xảy ra là nếu giá giảm, và cung cao, nhưng lại không đủ cầu, thì điều này dẫn đến thặng dư tiêu dùng.
Thặng dư thông thường xảy ra khi chi phí của một sản phẩm ban đầu được đặt quá cao và không ai sẵn sàng mua mức giá đó. Trong những trường hợp cụ thể như vậy, các doanh nghiệp thông thường bán sản phẩm với chi phí thấp hơn so với dự kiến ban đầu, để chuyển sang dự trữ trong kho.
4. Kết quả của thặng dư:
Thặng dư sẽ gây ra sự mất cân bằng thị trường trong cung và cầu của sản phẩm. Sự mất cân bằng này có nghĩa là sản phẩm không thể phân phối trong thị trường một cách hiệu quả. Tuy nhiên, chu kì thặng dư và thiếu hụt sẽ có cách tự mình cân bằng.
Đôi khi, để nhằm mục đích khắc phục sự mất cân bằng này, chính phủ sẽ tham gia vào và áp dụng một mức giá sàn (Price floor) – đưa ra một mức giá tối thiểu mà hàng hóa phải được bán. Mức giá áp dụng sẽ cao hơn so với người tiêu dùng dự định trả, do đó mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp.
Đôi lúc, sự can thiệp của chính phủ vào quá trình thặng dư là không cần thiết, vì sự mất cân bằng trong thặng dư có xu hướng tự điều chỉnh.
Khi các chủ thể là nhà sản xuất có nguồn cung dư thừa, họ phải bán sản phẩm với giá thấp hơn. Do đó, nhiều người tiêu dùng sẽ mua sản phẩm vì giá sản phẩm rẻ hơn. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu nguồn cung nếu nhà sản xuất không thể đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Sự thiếu hụt nguồn cung khiến giá tăng trở lại, do đó khiến người tiêu dùng quay lưng lại với sản phẩm vì giá cao, và chu kì cứ thể tiếp tục.
5. Quy luật giá trị thặng dư:
Khái niệm quy luật giá trị thặng dư:
Quy luật giá trị thặng dư trong tiếng Anh được gọi là Surplus value theory.
Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản bởi vì nó qui định bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chi phối mọi mặt đời sống kinh tế của xã hội tư bản.
Không có sản xuất giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản. Theo Cád Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư, đó là qui luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Ở đâu có sản xuất giá trị thặng dư thì ở đó sẽ có chủ nghĩa tư bản, và ngược lại, ở đâu có chủ nghĩa tư bản thì ở đó có sản xuất giá trị thặng dư. Chính vì vậy, Lênin gọi quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.
Nội dung quy luật giá trị thặng dư:
Nội dung của quy luật giá trị thặng dư là sản xuất nhiều và ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư bằng cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.
Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động lực thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là nhân tố đảm bảo sự tồn tại, thúc đẩy sự vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản;
Bên cạnh đó thì quy luật giá trị thặng dư sẽ làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.
Bên cạnh đó quy luật giá trị thặng dư còn là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân
Quy luật giá trị thặng dư: đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Với mục đích là thu được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư, các nhà tư bản cạnh tranh với nhau, tiêu diệt lẫn nhau để có được qui mô giá trị thặng dư lớn hơn, tỉ suất giá trị thặng dư cao hơn.
Để giúp các chủ thể sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, cải tiến sản xuất.
Từ đó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, nền sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt.
Tất cả những yếu tố đó đã đưa xã hội tư bản đến chỗ phủ định chính mình.