Tăng trưởng bần cùng hóa là gì? Tăng trưởng bần cùng hóa tạm dịch ra tiếng Anh đó chính là Immiserizing growth. Tìm hiểu về tăng trưởng bần cùng hóa?
Về mặt lý thuyết, tăng trưởng kinh tế có thể có những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế đang phát triển khi sản xuất mở rộng đối với các sản phẩm mà nhu cầu thế giới không trở nên phát triển mà việc tăng trưởng này lại được xác định là tăng trưởng tiêu cực. Nếu sự tăng trưởng diễn ra trong các ngành và sản phẩm mà nhu cầu thế giới co giãn thì có thể hy vọng rằng tổng doanh thu của các nhà sản xuất và xuất khẩu trong nước sẽ tăng lên.
1. Tăng trưởng bần cùng hóa là gì?
Tăng trưởng bần cùng hóa tạm dịch ra tiếng Anh đó chính là Immiserizing growth. Tăng trưởng bần cùng hóa hàm ý về một sự tăng trưởng tiêu cực.
Tăng trưởng bần cùng hóa là một tình huống lý thuyết được Jagdish Bhagwati đề xuất lần đầu tiên vào năm 1958, trong đó tăng trưởng kinh tế có thể dẫn đến việc một quốc gia trở nên tồi tệ hơn so với trước khi tăng trưởng. Nếu tăng trưởng dựa nhiều vào xuất khẩu, nó có thể dẫn đến giảm thương mại của nước xuất khẩu. Trong một số trường hợp hiếm hoi, sự sụt giảm này về mặt thương mại có thể lớn hơn nhiều so với lợi ích thu được từ tăng trưởng. Nếu vậy, tình trạng này sẽ khiến một quốc gia sau khi tăng trưởng trở nên tồi tệ hơn trước. Kết quả này chỉ có giá trị nếu quốc gia trồng trọt có khả năng ảnh hưởng đến giá thế giới. Harry G. Johnson, một cách độc lập, đã tìm ra các điều kiện cho kết quả này vào năm 1955
Bên cạnh đó thì tăng trưởng bần cùng hóa còn được hiểu một cách đơn giản nhất đó chính là tình huống trong đó một quốc gia đang phát triển trong nền kinh tế thị trường tìm cách tăng tiềm năng tăng trưởng của đất nước mình dựa trên việc tăng lên về hoạt động xuất khẩu, nhưng chính việc tăng hoạt động xuất khẩu này lại trở thành yếu tố cản trở quá trình tăng trưởng.
Đây tăng trưởng bần cùng hóa được xác định chính là tình huống ngoại lệ và trong lí thuyết nó chỉ được áp dụng cho những nước xuất khẩu hàng đặc sản (có thể là mỏ quặng hay sản phẩm nông nghiệp).
Từ đó có thể thấy rằng có rất ít mặt hàng như vậy, cụ thể là các sản phẩm thực phẩm và tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ. Theo như nghiên cứu kinh tế lượng hàm cầu đối với cà phê Brazil làm ví dụ, chúng tôi so sánh ước tính của chúng tôi về độ co giãn của cầu đối với xuất khẩu cà phê nhân của Brazil với nghiên cứu khác về độ co giãn của cầu đối với cà phê nhân trên thế giới. Chúng tôi kết luận rằng đối với các sản phẩm chế tạo, nhu cầu có độ co giãn cao, khó có khả năng các nước xuất khẩu rơi vào tình trạng chưa chính thức hóa, do đó, tăng trưởng và tham gia sâu hơn vào thương mại toàn cầu trở nên khá có lợi. Kết luận của tác giả là lý thuyết kinh tế và chính sách thương mại đã nhấn mạnh quá nhiều vào khái niệm tăng trưởng chưa trưởng thành, một vấn đề mang tính lý thuyết nhiều hơn là một vấn đề thực tế.
2. Tìm hiểu về tăng trưởng bần cùng hóa:
Tăng trưởng bất biến là một hiện tượng dài hạn xảy ra khi lợi ích về phúc lợi xã hội của một quốc gia phát sinh từ tăng trưởng kinh tế được bù đắp nhiều hơn so với tổn thất về phúc lợi đó liên quan đến sự thay đổi bất lợi trong điều kiện thương mại. Trong một trường hợp được khám phá cách đây nhiều năm bởi Jagdish Bhagwati, tăng trưởng chưa kịp thời xảy ra ở một quốc gia đang phát triển đã bắt đầu tăng trưởng kinh tế nhưng phải đối mặt với các điều kiện nhu cầu quốc tế không thuận lợi khi nước này tăng xuất khẩu truyền thống.
Trong một trường hợp khác được Paul A. Samuelson khám phá gần đây, tăng trưởng chưa kịp thời xảy ra đối với nước công nghiệp đang phát triển khi đối tác thương mại của họ tuân theo chính sách tăng trưởng thay thế nhập khẩu và kết quả là thay đổi các điều khoản thương mại so với nước xuất khẩu. Vẫn có những người khác đã chỉ ra một loạt các trường hợp tăng trưởng chưa trưởng thành khác nhau. Tác giả cung cấp một phương pháp đồ họa đơn giản để phân tích những tình huống này và sau đó trình bày dữ liệu cho thấy rằng tăng trưởng chưa trưởng thành là một hiện tượng tương đối hiếm.
Nếu tăng trưởng của một quốc gia quá phụ thuộc xuất khẩu, sẽ dẫn tới tình trạng giảm tỉ lệ trao đổi (terms of trades – TOT) của nước xuất khẩu. Trong một số trường hợp, sự sụt giảm này sẽ lớn hơn phần tăng trưởng thu được.
Một quốc gia sẽ phải trải qua sự tăng trưởng bần cùng hóa nếu thỏa mãn ba điều kiện:
– Đất nước phải được thúc đẩy để xuất khẩu.
– Những thay đổi trong xuất khẩu này cần phải có tác động lớn đến giá hàng hóa, và nhu cầu nước ngoài đối với những hàng xuất khẩu này cần phải không co giãn để xuất khẩu tăng dẫn đến thu nhập xuất khẩu giảm.
– Quốc gia phải phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu và xuất khẩu phải chiếm tỉ trọng cao trong tổng sản phẩm quốc dân.
Thông thường, hiệu quả kinh tế của một quốc gia được đo lường bằng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân đầu người, trong đó tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản lượng của nền kinh tế. Mặt khác, phát triển kinh tế được tạo ra bởi sự gia tăng tổng phúc lợi của một nền kinh tế. Tăng trưởng bất biến là tình trạng trong thương mại quốc tế mà phát triển kinh tế và tăng trưởng không di chuyển cùng chiều, tức là phúc lợi giảm trong khi tăng trưởng kinh tế dương. Ý tưởng về tăng trưởng bất biến được Bhagwati thể hiện trong mô hình truyền thống hai quốc gia, hai hàng hóa “thực tế” với toàn dụng lao động.
Ông chứng minh rằng tăng trưởng không theo hướng có thể xảy ra do sự suy giảm của các điều khoản thương mại ngay cả khi nền kinh tế đang phát triển đối mặt với đường cong cung cấp nước ngoài co giãn. Theo ông đã nghiên cứu một cách độc lập các điều kiện của kết quả này. dẫn đến sự suy thoái đủ về điều kiện thương mại để bù đắp tác động có lợi của việc mở rộng và giảm thu nhập thực tế của nền kinh tế đang phát triển”. Dinopoulos coi bài báo của Bhagwati là một trong những bài báo có ảnh hưởng nhất trong lý thuyết về chính sách thương mại. chứng minh một cách chính thức khả năng tăng trưởng chưa từng có. Đối với Dinopoulos Bhagwati, hiểu biết cơ bản là “một ứng dụng tao nhã của lý thuyết về điều tốt thứ hai”. Các nhà kinh tế học khác không coi khái niệm tăng trưởng non trẻ là một vấn đề trong thế giới thực.
Theo như nhà nghiên cứu Johnson cho thấy khả năng thu nhập thực tế giảm khi tăng trưởng xảy ra trong các ngành thay thế nhập khẩu được bảo hộ, ngay cả trong trường hợp các nền kinh tế mở nhỏ. Mô hình của ông chỉ ra rằng điều kiện thương mại của một quốc gia giảm không phải là điều kiện cần thiết cho tăng trưởng chưa trưởng thành. Các nghiên cứu khác chứng minh rằng việc xây dựng hàng rào thuế quan với mục đích thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng có thể đưa nền kinh tế vào trạng thái non trẻ hóa. Hamada và Iwata cho thấy giá dầu nhập khẩu tăng lớn cũng có thể dẫn đến tăng trưởng chưa chính xác.
Bên cạnh đó thì việc các nhà ngihieen cứu trong lĩnh vực này thừa nhận rằng tăng trưởng chưa chín muồi phải liên quan đến một số hình thức kém tối ưu và nảy sinh khi có sự biến dạng đủ lớn trong nền kinh tế. Do đó, có thể tránh được sự tăng trưởng non nớt bằng cách loại bỏ sự biến dạng. Đối với những nghiên cứu thực tế về tăng trưởng chưa trưởng thành bằng cách sử dụng lý thuyết ưu tiên được tiết lộ để đo lường phúc lợi và đánh giá các chuyển động phúc lợi của từng quốc gia theo thời gian. mối quan hệ với nhu cầu thế giới. Giống như cung thế giới thay đổi do khả năng sản xuất của các quốc gia thay đổi, cầu thế giới cũng thay đổi do viện trợ nước ngoài, bồi thường chiến tranh và các chuyển giao thu nhập quốc tế khác.
Trong trường hợp thuế nhập khẩu và trợ cấp xuất khẩu, sự dịch chuyển cung và cầu trên thế giới xảy ra đồng thời và ảnh hưởng đến các điều kiện thương mại quốc tế theo nhiều cách khác nhau. Nghiên cứu tăng trưởng kinh tế từ góc độ cung chỉ là chuyện một sớm một chiều. Các tác động của một nền kinh tế mở rộng cần được phân tích đối với điều kiện của nhu cầu thế giới. Một khi điều kiện đó được tính đến, thì các nước đang phát triển dường như không có khả năng tăng trưởng nhanh.
Mục tiêu của bài báo này là chỉ ra rằng không phải lúc nào giá cả trên thị trường thế giới cũng giảm, do tác động của tăng trưởng kinh tế, làm tổn hại đến các nhà sản xuất trong nước. Đây sẽ là kết quả với nhu cầu thế giới không co giãn cao. Nếu chúng ta giả định buôn bán một sản phẩm mà nhu cầu thường không co giãn, thì chỉ khi đó tăng trưởng trong nước mới có tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Trong trường hợp cầu co giãn đối với sản phẩm xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế có thể thực sự mang lại lợi ích cho một nền kinh tế bất kể thực tế là các điều kiện thương mại thế giới đang trở nên tồi tệ hơn đối với nền kinh tế đang mở rộng.