Tài trợ thâm hụt là gì? Trong tiếng Anh tài trợ thâm hụt được biết đến với tên gọi đó chính là Deficit financing. Một số biện pháp tài trợ thâm hụt?
Đối với một quốc gia khi trong quá trình hình thành và phát triển đất nước thì việc cân đối thu chi ngân sách nhà nước là một trong những vấn đề cần được quan tâm rất lớn. Nếu như một quốc gia không cân đối được việc thu chi trong ngân sách của quốc gia mình mà dẫn đến việc chi nhiều hơn thu hay còn gọi là bội chi thì sẽ cần phải thực hiện các biện pháp tài trợ thâm hụt để bù đắp vào khoản chi ngân sách thâm hụt của quốc gia mình để trách được các rủi ro tiềm ẩn trong việc ngân sách thâm hụt này.
Mục lục bài viết
1. Tài trợ thâm hụt là gì?
Trong tiếng Anh tài trợ thâm hụt được biết đến với tên gọi đó chính là Deficit financing.
Tài trợ thâm hụt được xác định ở đây là việc tài trợ trong tình hình chi ngân sách vượt quá thu ngân sách.
Về mặt tài chính, thâm hụt xảy ra khi chi phí vượt quá doanh thu, nhập khẩu vượt xuất khẩu, hoặc nợ phải trả vượt quá tài sản. Thâm hụt đồng nghĩa với thiếu hụt hoặc thua lỗ và ngược lại với thặng dư. Thâm hụt có thể xảy ra khi chính phủ, công ty hoặc cá nhân chi tiêu nhiều hơn số tiền họ nhận được trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.
Thâm hụt xảy ra khi chi phí vượt quá doanh thu, nhập khẩu vượt quá xuất khẩu, hoặc nợ phải trả vượt quá tài sản trong một năm cụ thể. Các chính phủ và doanh nghiệp đôi khi cố tình thâm hụt để kích thích nền kinh tế trong thời kỳ suy thoái hoặc để thúc đẩy tăng trưởng trong tương lai. Hai loại thâm hụt chính mà các quốc gia phải gánh chịu là thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại.
Cho dù tình huống là cá nhân, doanh nghiệp hay chính phủ, thâm hụt sẽ làm giảm bất kỳ thặng dư hiện tại nào hoặc tăng thêm bất kỳ khoản nợ hiện có nào. Vì lý do đó, nhiều người cho rằng thâm hụt không bền vững trong dài hạn.
Mặt khác, nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh John Maynard Keynes cho rằng thâm hụt tài chính cho phép các chính phủ mua hàng hóa và dịch vụ có thể giúp kích thích nền kinh tế của họ – thâm hụt trở thành một công cụ hữu ích để đưa các quốc gia thoát khỏi suy thoái. Những người ủng hộ thâm hụt thương mại nói rằng chúng cho phép các quốc gia thu được nhiều hàng hóa hơn mức sản xuất của họ — ít nhất là trong một khoảng thời gian — và cũng có thể thúc đẩy các ngành công nghiệp trong nước của họ trở nên cạnh tranh hơn trên toàn cầu.
Tài trợ thâm hụt có nghĩa là tạo ra quỹ để tài trợ cho thâm hụt do vượt chi so với thu. Khoảng trống được bù đắp bằng cách vay mượn từ công chúng bằng cách bán trái phiếu hoặc bằng cách in tiền mới. Đối với các nước đang phát triển như Ấn Độ, tăng trưởng kinh tế cao hơn là một ưu tiên. Tăng trưởng kinh tế cao hơn đòi hỏi phải có tài chính. Với việc khu vực tư nhân e dè trong việc chi tiêu quá lớn, trách nhiệm thu hút các nguồn lực tài chính thuộc về chính phủ. Thường thì cả thu thuế và thu ngoài thuế đều không huy động đủ nguồn lực chỉ thông qua thuế. Khoản thâm hụt thường được tài trợ thông qua các khoản vay hoặc in tiền mới.
Việc in các tờ tiền mới làm tăng lưu lượng tiền tệ trong nền kinh tế. Điều này dẫn đến gia tăng áp lực lạm phát làm tăng giá hàng hóa và dịch vụ trong nước. Tài chính thâm hụt vốn là lạm phát. Vì thâm hụt tài chính làm tăng tổng chi tiêu và do đó, làm tăng tổng cầu, nên nguy cơ lạm phát ngày càng lớn. Lạm phát bán lẻ ở Ấn Độ đã tăng lên mức cao nhất trong 5 năm rưỡi là 7,35% vào tháng 12, vi phạm giới hạn chịu đựng của ngân hàng trung ương là 6% và xác nhận lo ngại của một số nhà kinh tế rằng Ấn Độ đang bước vào giai đoạn tăng trưởng chậm lại. và tăng giá.
2. Một số biện pháp tài trợ thâm hụt:
Các biện pháp tài trợ thâm hụt có thể kể đến như:
– Thứ nhất, biện pháp tài trợ thâm hụt được áp dụng đầu tiên đó là vay nợ trong nước: Hoạt động này theo như quy định thì sẽ được thực hiện bởi Chính phủ. Do đó, việc tiến hành vay nợ trong nước sẽ do chính phủ thực hiện, huy động nguồn tiền dự trữ trong dân chúng bằng cách phát hành trái phiếu, công trái của Chính phủ.
Ưu điểm của biện pháp tài trợ thâm hụt này được xác định là biện pháp cho phép Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát.
Mặt hạn chế của việc tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách vay nợ tuy không gây ra lạm phát trước mắt nhưng có thể làm tăng áp lực lạm phát trong tương lai nếu tỉ lệ nợ/GDP liên tục tăng. Ngoài ra, việc huy động nợ từ dân chúng trực tiếp làm giảm khả năng tiếp cận tín dụng của khu vực tư nhân và gây sức ép làm tăng lãi suất trong nước.
– Thứ hai, biện pháp tài trợ thâm hụt được áp dụng tiếp theo là việc vay nợ nước ngoài: thì hoạt động này là hoạt động vay nợ nước ngoài thông qua việc nhận viện trợ nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các Chính phủ nước ngoài, các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế…, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB), Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)… và việc làm này được thực hiện bởi Chính phủ của một quốc gia
Thuận lợi mà biện pháp tài trợ thâm hụt này có thể bù đắp được các khoản bội chi mà không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế. Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
Hạn chế của biện pháp này đó chính là việc vay nợ nước ngoài làm tăng gánh nặng nợ nần, tăng nghĩa vụ trả nợ cho nền kinh tế, giảm khả năng chi tiêu của Chính phủ. Đồng thời, hướng tài trợ này khiến cho nền kinh tế bị phụ thuộc vào nước ngoài, nhất là khi các khoản viện trợ thường kèm theo các điều khoản về kinh tế, chính trị, quân sự.
Thứ ba, Sử dụng dự trữ ngoại tệ được hiểu là việc giảm dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm hụt ngân sách việc này được thực hiện bởi quyết định của chính phủ. Trong đó, thì quỹ dự trữ ngoại tệ được biết đến là quỹ có lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan hữu trách tiền tệ của một quốc gia hoặc một lãnh thổ nắm giữ nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ đồng tiền quốc gia.
Biện pháp sử dụng dự trữ ngoại tệ này có ưu điểm là mức dự trữ hợp lí có thể giúp quốc gia tránh khỏi khủng hoảng.
Bên cạnh mặt thuận lợi thì nó cũng có gây ra những hạn chế cho một quốc gia trong việc sử dụng dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm hụt ngân sách tiềm ẩn nhiều rủi ro và cần hạn chế sử dụng. Ngoài ra thì nếu nguồn dự trữ ngoại thể của quốc gia hết sức mỏng manh và mất niềm tin vào khả năng can thiệp vào thị trường ngoại hối của Chính phủ, điều này có thể dẫn đến dòng vốn ồ ạt chảy ra thế giới bên ngoài, làm cho đồng nội tệ giảm mạnh và gia tăng sức ép lạm phát.
Thứ tư, biện pháp vay ngân hàng (in tiền), do đó, để đáp ứng yêu cầu này, tất nhiên, Ngân hàng trung ương sẽ tăng việc in tiền để Ngân hàng Trung ương cho Chính phủ vay. Việc vay Ngân hàng Trung ương sẽ đáp ứng nhanh chóng nhu cầu bù đắp ngân sách nhà nước, không phải trả lãi và không tạo ra gánh nặng nợ nần. Những mặt trái của việc in thêm tiền hay phát hành thêm tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền, có thể gây nên tình trạng lạm phát gia tăng đến mức không thể kiểm soát nổi. Cũng chính vì việc ngan sác thâm hụt mà các quốc gia lựa chọn việc in thêm tiền dễn đến việc trong những năm 80 của thế kỉ 20, nước ta đã bù đắp bội chi ngân sách nhà nước bằng cách in thêm tiền đưa vào lưu thông. Việc này đã đẩy tỉ lệ lạm phát đỉnh điểm lên tới hơn ba con số. Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất ít khi được sử dụng. Và từ năm 1992, nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước.
Lưu ý: Ngoài các biện pháp nêu trên, Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt thông qua áp dụng chính sách “tăng thu, giảm chi”. Bằng quyền hạn và nhiệm vụ được giao, Chính phủ tính toán hợp lí để tăng các khoản thu (ví dụ thu thuế) và cắt giảm chi tiêu.
Ví dụ:
Vào tháng 9 năm 2020, Văn phòng Ngân sách Quốc hội (CBO) dự kiến thâm hụt ngân sách liên bang là 3,3 nghìn tỷ đô la cho năm 2020, cao hơn gấp ba lần thâm hụt cho năm 2019. Sự gia tăng này, CBO giải thích, “phần lớn là kết quả của sự gián đoạn kinh tế gây ra vào năm 2020 đại dịch coronavirus và việc ban hành luật pháp để ứng phó. ” CBO nói thêm rằng thâm hụt ngân sách 3,3 nghìn tỷ USD sẽ bằng 16% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước, khiến nước này trở thành mức thâm hụt hàng năm lớn nhất kể từ năm 1945, năm cuối cùng của Thế chiến thứ hai.
Về nợ quốc gia, CBO dự kiến rằng vào cuối năm 2020, nợ liên bang do công chúng nắm giữ (chứ không phải chính phủ) sẽ đạt 98% GDP, so với 79% vào cuối năm 2019. Đối mục đích so sánh, trước khi bắt đầu cuộc Đại suy thoái năm 2007, nó ở mức 35% GDP.
Tại thời điểm này, CBO cũng dự đoán rằng nợ sẽ đạt 107% GDP vào năm 2023, mức cao nhất trong lịch sử quốc gia.