"Sống Chết Mặc Bay" không chỉ là một tác phẩm văn chương nổi tiếng vì nó chứa đựng giá trị văn hóa và lịch sử mà còn vì cách tác giả sử dụng ngôn ngữ và hình tượng nhân vật để thể hiện hiện thực đau thương, lòng nhân đạo và tài năng nghệ thuật. Dưới đây là bài viết về chủ đề: Soạn bài Sống chết mặc bay ngắn gọn nhất | Soạn văn 7, mời bạn đọc theo dõi.
Mục lục bài viết
1. Đọc – hiểu văn bản Sống chết mặc bay:
Câu 1 trang 81 SGK Ngữ Văn 7 Tập 2
Sống chết mặc bay có thể được chia làm mấy đoạn? Mỗi đoạn nói gì?
Trả lời:
Bố cục gồm 3 phần:
Đoạn 1 (Từ đầu … Khúc đê này hỏng mất): Tình hình đê vỡ và sức chống đỡ.
Đoạn 2 (tiếp … Điếu, mày!): Cảnh quan phụ mẫu đánh tổ tôm bài bạc.
Đoạn 3 (còn lại): Kết cục đê vỡ, nhân dân lâm vào lầm than.
Câu 2 trang 81 SGK Ngữ Văn 7 Tập 2
Phép tương phản (cũng gọi là đối lập) trong nghệ thuật là việc tạo ra những hành động, những cảnh tượng, những tính cách trái ngược nhau để qua đó làm nổi bật một ý tưởng bộ phận trong tác phẩm giăc tư tưởng chính của tác phẩm.
Dựa vào định nghĩa trên, em hãy:
a) Chỉ ra hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay.
b) Phân tích làm rõ từng mặt trong sự tương phản đó (Chú ý đến các chi tiết thuộc về cảnh người dân đang hộ đê trong trạng thái nguy kịch và các chi tiết thuộc về tên quan đang cùng nha lại chơi bài trong đình với không khí trong tịch mịch, trang nghiêm)
c) Chỉ ra qua hai mặt tương phản, hình ảnh tên quan phủ đi “hộ đê” được tác giả khắc họa như thế nào. (Chú ý đến các chi tiết thuộc về: chỗ ở, điều kiện sinh hoạt trong khi “đốc thúc việc hộ đê”; cách ngồi, tư thế, giọng điệu ngôn ngữ bọn nha lại, chánh tổng… đặc biệt là thái độ, cách nói khi đã có tin đê vỡ)
d) Nêu lên dụng ý của tác giả trong việc dựng cảnh tương phản này.
Trả lời:
Phép tương phản, hay còn gọi là đối lập, trong nghệ thuật là một kỹ thuật sáng tạo tạo ra sự tương phản giữa các yếu tố khác nhau để làm nổi bật ý tưởng chính của tác phẩm. Trong truyện “Sống Chết Mặc Bay”, tác giả đã khéo léo sử dụng phép tương phản để làm nổi bật sự đối lập giữa cuộc sống của người dân và sự hời hợt, ba hoa của quan lại.
a. Hai mặt tương phản cơ bản:
– Người dân hộ đê: Đêm khuya, mưa tầm tã, nước sông dâng cao. Cảnh tượng nguy kịch, những người dân mệt lử nhưng vẫn kiên trì chiến đấu với thời tiết khắc nghiệt. Sức đề kháng của đê yếu hơn sức nước, và mọi thứ đều trở nên đau lòng và kịch tính.
– Quan lại chơi bài trong đình: Đối lập với sự hỗn loạn của đê, trong đình, quan lại tụ tập hòa mình trong không gian sang trọng và trang nghiêm. Họ chơi bài, không màng đến sự nguy kịch bên ngoài, tận hưởng không khí yên bình và ấm áp của đình cao quý.
b. Phân tích sâu rộng sự tương phản:
– Người dân hộ đê: Hình ảnh người dân lộn xộn, chống chọi với thời tiết khắc nghiệt nhấn mạnh sự đối lập giữa cuộc sống khó khăn và tự cường của họ. Mỗi chi tiết như cách họ trông chăm chú vào đê, bước chân mệt mỏi, ánh đèn lộp bộp của những chiếc đèn dầu làm tăng thêm bức tranh đau thương và đấu tranh của họ.
– Quan lại trong đình: Bức tranh của đình cao quý, những chiếc bàn cờ, ánh đèn lung linh tạo nên không gian xa hoa và sang trọng. Cách họ ngồi, tư thế thoải mái, giọng điệu dễ chịu khi chơi bài làm nổi bật sự hời hợt, ba hoa và không có sự quan tâm đến vấn đề nghiêm trọng bên ngoài.
c. Hiện thực hóa hình ảnh tên quan phủ đi “hộ đê”:
– Chỗ ở: Người dân sống trong căn nhà mộc mạc, giữa cảnh tượng bị ngập lụt, trong khi quan lại có không gian cao quý, đẳng cấp.
– Điều kiện sinh hoạt: Người dân sống trong môi trường khắc nghiệt, trong khi quan lại tiếp tục chơi bài, không chịu tác động của thời tiết khắc nghiệt.
– Cách ngồi, tư thế, giọng điệu: Quan lại thoải mái, vô tư, trong khi người dân trải qua sự khó khăn và áp lực.
– Thái độ khi đê vỡ: Quan lại không mảy may quan tâm, thậm chí chơi bài càng sung sướng khi có tin đê vỡ, đối lập với cảnh người dân đau khổ và mất mát.
d. Ý định của tác giả:
Tác giả thông qua việc tạo ra hình ảnh tương phản giữa người dân và quan lại đã muốn truyền đạt một thông điệp sâu sắc về sự bất công và sự thiếu trách nhiệm của quan lại trong bối cảnh khẩn cấp. Tác giả đặt câu hỏi về lòng nhân ái, tinh thần trách nhiệm và sự lạc quan của những người đứng đầu xã hội trong khi những người dân bình thường phải đối mặt với những thách thức khắc nghiệt.
Câu 3 trang 82 SGK Ngữ Văn 7 Tập 2
Trong nghệ thuật văn chương còn có phép tăng cấp (lần lượt đưa thêm chi tiết và chi tiết sau phải cao hơn chi tiết trước), qua đó làm rõ them bản chất một sự việc, một hiện tượng muốn nói. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã kết hợp khéo lép phép tương phản và phép tăng cấp để bộc lộ rõ nét tính cách của nhân vật.
Em hãy phân tích, chứng minh ý kiến trên bằng cách trả lời các câu hỏi sau:
a) Sự tăng cấp trong việc miêu tả mức độ của trời mưa, của độ nước dâng cao, của nguy cơ vỡ đê, của cảnh hộ đê vất vả, căng thẳng của người dân (trong đó có mức độ của tiếng trống đánh, ốc thổi, tiếng người gọi nhau sang hộ đê) là thế nào?
b) Sự tăng cấp trong miêu tả mức độ đam mê bài bạc của tên quan phủ như thế nào?
c*) Hãy nhận xét về tác dụng của sự kết hợp hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong việc vạch trần bản chất “lòng lang dạ thú” của tên quan phủ trước sinh mạng của người dân.
Trả lời:
Trong tác phẩm “Sống Chết Mặc Bay”, tác giả không chỉ sử dụng phép tương phản mà còn kết hợp với phép tăng cấp để làm rõ nét tính cách của nhân vật và hiện thực hóa bản chất “lòng lang dạ thú” của tên quan phủ trước sự đau khổ của người dân.
a. Sự tăng cấp trong miêu tả người dân hộ đê:
Tác giả tăng cường mức độ mưa mỗi lần một nhiều, mức độ nước dâng ngày càng tăng cao, âm thanh từ tiếng trống đánh, ốc thổi và tiếng gọi nhau vượt lên từng cấp độ. Sức người dân trở nên yếu đuối hơn với thời tiết khắc nghiệt, và nguy cơ đê vỡ ngày càng đến gần. Tác giả thông qua sự tăng cấp này làm nổi bật sự căng thẳng, vất vả của người dân trước mối đe dọa của thiên nhiên.
b. Sự tăng cấp trong miêu tả độ đam mê bài bạc của tên quan phủ:
Tên quan phủ không chỉ đam mê bài bạc mà còn đến mức vô trách nhiệm. Mức độ đam mê của ông tăng lên đến mức độ vượt trội, ông vươn lên đến đỉnh cao của niềm sung sướng khi chơi bài ngay cả khi đê vỡ. Sự tăng cấp này thể hiện sự thiếu trách nhiệm và mê muội trong đối nhân xử thế của tên quan.
c. Sự kết hợp của hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp:
Việc kết hợp phép tương phản và tăng cấp giúp tạo ra một bức tranh rõ ràng về sự không công bằng và lòng tham lam của tên quan phủ. Trong khi người dân hộ đê đang đối mặt với đau khổ, căng thẳng và đe dọa của đê vỡ, tên quan phủ lại hòa mình trong không gian xa hoa của đình, chơi bài bạc và không hề quan tâm đến sự hỗn loạn bên ngoài. Sự tương phản giữa cảnh người dân và quan lại làm nổi bật sự độc tài và lòng lang dạ thú của bọn quan. Mỗi chi tiết được tăng cấp như mưa, nước lụt và tiếng gọi cầu cứu từ hộ đê đều làm nổi bật sự tàn nhẫn và bất nhân của tên quan phủ, đồng thời làm tăng cường cảm nhận của độc giả về sự không công bằng trong xã hội.
Câu 4 trang 82 SGK Ngữ Văn 7 Tập 2
Hãy phát biểu chung về giá trị hiện thực, nhân đạo và nghệ thuật (ngôn ngữ, hình tượng nhân vật)
Trả lời:
Giá trị hiện thực, nhân đạo và nghệ thuật của tác phẩm “Sống Chết Mặc Bay” của tác giả
Hiện thực: Tác phẩm thể hiện sự hiện thực đau thương của cuộc sống dưới chế độ phong kiến. Tác giả vẽ lên một bức tranh sống chết cùng mặc bay của nhân dân trong hộ đê, trong sự lo lắng, căng thẳng trước mối nguy hiểm của đê vỡ và sự vô trách nhiệm của quan lại. Sự hiện thực được tái hiện một cách chân thực qua miêu tả chi tiết về thời tiết khắc nghiệt, tình trạng nguy cơ và tình hình cộng đồng.
Nhân đạo: Trong khi tập trung vào mô tả cuộc sống khó khăn, tác giả không quên thể hiện lòng nhân đạo, thương cảm với nhân dân bị chính sách và quan lại bóp méo. Nhân đạo được thể hiện rõ trong việc mô tả sự khổ đau, vất vả của nhân dân hộ đê và đồng thời là sự lạnh lùng, lợi dụng của bọn quan lại. Tác giả đã làm cho độc giả cảm nhận được sự đau khổ và tuyệt vọng của những người bị đàn áp.
Nghệ thuật: Với ngôn ngữ sinh động, sắc sảo, Nam Cao đã kết hợp hai phép nghệ thuật chính là tương phản và tăng cấp. Tương phản được thể hiện qua so sánh giữa cuộc sống khắc nghiệt của nhân dân hộ đê và sự xa hoa, vô trách nhiệm của quan lại. Sự tăng cấp được thể hiện rõ khi tác giả gia tăng mức độ mưa, nước lụt, tiếng ồn và nguy cơ đê vỡ để làm nổi bật sự căng thẳng và nguy hiểm đang đe dọa. Hình tượng nhân vật được xây dựng một cách tinh tế, sắc nét, từ đó làm tăng sức thu hút của tác phẩm.
Tóm lại, “Sống Chết Mặc Bay” không chỉ là một tác phẩm văn chương nổi tiếng vì nó chứa đựng giá trị văn hóa và lịch sử mà còn vì cách tác giả sử dụng ngôn ngữ và hình tượng nhân vật để thể hiện hiện thực đau thương, lòng nhân đạo và tài năng nghệ thuật.
2. Những hình thức ngôn ngữ đã được vận dụng trong truyện Sống chết mặc bay là gì?
Câu 1 trang 83 SGK Ngữ Văn 7 Tập 2
Những hình thức ngôn ngữ đã được vận dụng trong truyện Sống chết mặc bay là gì? Hãy trả lời câu hỏi trên bằng cách đánh dấu theo bảng thống kê sau đây:
Hình thức ngôn ngữ | Có | Không |
Ngôn ngữ tự sự | ||
Ngôn ngữ miêu tả | ||
Ngôn ngữ biểu cảm | ||
Ngôn ngữ người kể chuyện | ||
Ngôn ngữ nhân vật | ||
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm | ||
Ngôn ngữ đối thoại |
Trả lời:
Có tất cả các ngôn ngữ nêu đã nêu trừ ngôn ngữ độc thoại nội tâm.
3. Qua ngôn ngữ đối thoại của quan phủ, em thấy tính cách của nhân vật đó như thế nào?
Câu 2 trang 83 SGK Ngữ Văn 7 Tập 2
Qua ngôn ngữ đối thoại của quan phủ, em thấy tính cách của nhân vật đó như thế nào? Hãy nêu nhận xét về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tính cách nhân vật.
Trả lời:
Tính cách của nhân vật quan phủ trong “Sống Chết Mặc Bay” thể hiện rõ qua ngôn ngữ đối thoại mà tác giả Nam Cao sử dụng. Ngôn ngữ của quan phủ thường mang đặc điểm ngắn gọn, trực tiếp, không màng đến sự tôn trọng hay nhân quả. Những lời nói của ông ta thường được diễn đạt một cách hàm ý và thô tục, phản ánh tính cách thô bạo, vô tình, và hời hợt.
Ngôn ngữ của quan phủ thường ngắn, không mô tả chi tiết, không dành thời gian cho sự cầu kỳ. Điều này thể hiện tính cách cắt giảm, thiếu quan tâm đến những khía cạnh nhân văn và đạo đức. Quan phủ thường diễn đạt những ý kiến của mình một cách cụt ngủn, không chi tiết, phản ánh sự thiếu chân thành và trách nhiệm trong lời nói.
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tính cách của nhân vật rất rõ ràng. Ngôn ngữ là một phương tiện để thể hiện tính cách, và trong trường hợp của quan phủ, ngôn ngữ của ông là đại diện cho tính cách bề ngoài của một quan lại vô trách nhiệm, tham lam, và thiếu nhân đạo. Mỗi từ ngữ, mỗi câu chuyện, mỗi lời nói đều làm nổi bật tính cách không tốt của nhân vật, làm cho độc giả phản cảm và cảm thấy sự khinh miệt từ quan phủ.