"Câu cá mùa thu" của Nguyễn Khuyến đã xứng đáng trở thành một trong những thi phẩm đặc sắc về mùa thu. Từng vần thơ con chữ đong đầy tình cảm của thi nhân, thể hiện rõ sự tinh tế và sâu sắc của ông trong việc diễn tả cảnh vật.
Mục lục bài viết
1. Giới thiệu đôi nét về tác giả:
Bắt đầu viết bài về “Câu cá mùa thu”, tôi xin giới thiệu về tác giả
Ông được nuôi dưỡng trong một gia đình theo truyền thống Nho học, có nền tảng học thức vững chắc. Nguyễn Khuyến cũng có chí hướng mạnh mẽ, đỗ đầu cả ba kì thi tuyển chọn nhân tài của đất nước: Hương, Hội, Đình. Tuy đã xác định được vị thế trong chốn quan trường, ông không bao giờ màng đến cuộc sống lợi danh, phù phiếm.
Thay vào đó, ông chọn cuộc sống bình dị, chân phương ở quê nhà và làm công việc dạy học. Đáng chú ý, suốt cuộc đời, dù sống trong thời đại bị thực dân Pháp xâm lược, Nguyễn Khuyến luôn kiên quyết giữ thái độ không hợp tác.
2. Giới thiệu đôi nét về tác phẩm Câu cá mùa thu:
Để hiểu về bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến, chúng ta cần tìm hiểu về ba bài thơ thu nổi tiếng của ông, bao gồm Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Các tác phẩm này được viết bằng chữ Nôm và đã giúp Nguyễn Khuyến trở thành một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của Việt Nam. Trong bài thơ Câu cá mùa thu, chúng ta có thể nhận thấy những nét chính đặc trưng của tác phẩm này.
3. Bố cục:
3.1. Cách chia 1 bao gồm các phần sau:
– Hai câu đề miêu tả về quang cảnh mùa thu.
– Hai câu thực diễn tả về những chuyển động nhẹ nhàng của mùa thu.
– Hai câu luận nói về bầu trời và không gian làng quê.
– Hai câu kết thúc bài thơ tâm trạng của nhà thơ.
3.2. Cách chia 2 gồm hai phần:
– Phần 1 bao gồm sáu câu thơ đầu miêu tả về cảnh mùa thu ở vùng quê Bắc Bộ.
– Phần 2 gồm hai câu thơ cuối về tình thu.
3.3. Giá trị nghệ thuật, giá trị nội dung:
Bài thơ của Nguyễn Khuyến thể hiện sự cảm nhận tinh tế về cảnh sắc mùa thu đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời thể hiện tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên và đất nước, cùng với tâm trạng thời thế và tài thơ Nôm.
Nghệ thuật của bài thơ được thể hiện qua các phương pháp sau:
– Sử dụng vần “eo” (tử vận) một cách thần tình và độc đáo để tạo ra một không gian vắng lặng, thu nhỏ dần, phù hợp với tâm trạng uẩn khúc của nhà thơ.
– Sử dụng động tả tĩnh, một trong những nghệ thuật của thơ cổ phương Đông.
– Vận dụng tài tình nghệ thuật đối.
4. Nội dung tác phẩm:
Đi câu là một hoạt động thú vị và được nhiều người yêu thích. Có những người có tài năng trong việc này, nhưng cũng có những người chỉ đơn giản là đi câu để thư giãn. Nguyễn Khuyến là một trong những người như vậy. Ông đã tận dụng cơ hội này để tận hưởng mùa thu và viết nên bài thơ “Thu điếu” – một tác phẩm được coi là kiệt tác trong văn học Việt Nam.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Trong bài thơ của ông, ta thấy được hình ảnh mùa thu được mô tả với chi tiết và tinh tế. Ao thu của làng Bùi là nơi ông câu cá, với chiếc thuyền nhỏ thênh thang trên mặt nước trong veo của ao. Tác giả miêu tả cảm giác của mình khi đối diện với cảnh vật này, với những đoạn thơ trôi chảy tự nhiên và không có chút kĩ xảo nào.
Mùa thu càng trở nên sâu hơn, ao thu càng nổi sóng với hai thanh trắc ở đầu câu và hai thanh trắc ở cuối câu. Sóng nhỏ vì ao nhỏ, lại là trong chỗ khuất. Gió heo may của mùa thu thổi nhẹ, tạo ra những sóng biếc đẹp mắt. Màu sắc của mùa thu được phản ánh qua câu thơ “sóng biếc” và “lá vàng”. Những đoạn thơ như “hơi gợn tí” và “khẽ đưa vèo” cũng tạo ra vận động tự nhiên của mùa thu.
Dưới ánh mắt của Xuân Diệu, bài thơ “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến có chiếc lá vàng đặc trưng như sau: “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. Xuân Diệu đã có những lời bình đầy tâm đắc về bài thơ này.
Bài thơ của Nguyễn Khuyến mở ra một không gian rộng lớn, tạo nên không khí khoáng đạt và mở rộng không gian của bức tranh “Thu điếu”. Màu da trời “xanh ngắt” thật đẹp và màu xanh xao rất tha thiết. Trong màu “xanh ngắt” có sự thăm thẳm của chiều cao. Những áng mây trắng “lơ lửng” trên bầu trời “xanh ngắt” tạo ra một không khí thanh bình. Tác giả sau đó trở lại với cảnh làng quê với hình ảnh của những con đường quanh co, những chiếc bóng tre trùm mát rượi. Trong thơ của Nguyễn Khuyến, cây trúc được miêu tả là “cây chí khí” với các nét thẳng đối lập với những nét uốn cong của đường làng. Cảnh thu trong bài thơ làm cho người đọc cảm thấy buồn, tĩnh lặng và đẹp. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết về cảnh thu trong các tác phẩm của mình.
Cảm nhận rét mướt qua làn gió, chuyến đò trôi đi và đó là mùa thu.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh một người đi câu, giống như một bức tranh tự họa:
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nhà thơ thu hẹp lại thân mình để phù hợp với cảnh ao nhỏ và chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Trong khi người đi câu đang suy tư, những chữ “đ” (đâu, đớp, động) mô tả sự xao động trong nước ao và trong lòng người đi câu. Nhà bình luận đã so sánh cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến với Khương Tử Nha và ca ngợi cả hai nhà văn. Tuy nhiên, thực tế là Nguyễn Khuyến đã không chờ đợi. Nhà thơ chỉ muốn hòa nhập vào thiên nhiên, vào quê hương. Tất cả các hình tượng trong bài thơ “Thu điếu” đều thể hiện tinh thần này. Khung cảnh hẹp, ao nhỏ, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ thu hẹp lại thân mình và tự hòa nhập với thiên nhiên, hòa nhập với quê hương. Do đó, không thể so sánh thái độ đi câu của Nguyễn Khuyến với Khương Tử Nha. Tuy nhiên, tôi đồng ý với quan điểm của Nguyễn Khuyến.
Nếu phải chọn một bài thơ trong bộ sưu tập thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến, tôi sẽ chọn bài “Thu điếu”. Bài thơ “Thu điếu” là một kiệt tác trong nền thơ cổ điển Việt Nam. Bức tranh mùa thu được miêu tả bằng những màu sắc tinh tế và đường nét gợi cảm. Nhạc điệu cũng rất đặc biệt với những vần thơ tự nhiên và hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, bài thơ không có chữ nào thừa. Đây thực sự là một tác phẩm của một nghệ sĩ tài ba. Tình yêu của nhà thơ dành cho quê hương, đất nước, sông núi và làng quê đã là.
Bức tranh đẹp ấy chỉ có thể được họa lên bởi cái nhìn tinh tế của bậc thầy thơ Nôm trung đại. Tác phẩm mang đến một nỗi buồn nhẹ nhàng, không u uất nhưng lại lan tỏa ra xung quanh và tạo ra một khoảng lặng trong tâm hồn. Đó chính là nét đặc trưng của tác giả, khiến cho người đọc lưu luyến và cảm nhận được sự day dứt với đời, tạo nên giá trị trường tồn và sức sống lâu bền cho tác phẩm.
“Thu điếu” của Nguyễn Khuyến đã xứng đáng trở thành một trong những thi phẩm đặc sắc về mùa thu. Từng vần thơ con chữ đong đầy tình cảm của thi nhân, thể hiện rõ sự tinh tế và sâu sắc của ông trong việc diễn tả cảnh vật. Không chỉ là một nhà họa sĩ, Nguyễn Khuyến còn là một nhà thi sĩ xuất sắc. Những câu thơ của ông không chỉ là một bức tranh tả cảnh mà còn là những ngôn từ gợi tình, đầy tình cảm. Nguyễn Khuyến được biết đến vừa là nhà thơ trào phúng, vừa là nhà thơ trữ tình, phản ánh tư tưởng Lão Trang và triết lí Đông phương. Thơ chữ Hán của ông chủ yếu là thơ trữ tình. Ông đạt thành công trên cả hai lĩnh vực này. Thu điếu là một trong ba bài thu được Nguyễn Khuyến viết bằng chữ Nôm, có bút pháp tinh tế và họa cảnh sống động. Cảnh vật trong bài thơ được mô tả từ gần đến xa, rồi từ xa trở lại gần. Nhà thơ quan sát cảnh sắc thu theo người, từ đó thể hiện được không gian và tình cảm trong bài thơ một cách sinh động.