Khái niệm số dư bình quân thu được của các khoản tiền gửi tại ngân hàng? Nội dung về số dư bình quân thu được của các khoản tiền gửi tại ngân hàng?
Số dư bình quân là thuật ngữ được sử dụng để nhắc đến một khoản tiền có trong tài khoản ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm số dư bình quân thu được của các khoản tiền gửi tại ngân hàng?
Trước hết, cần hiểu khái quát về số dư bình quân, theo đó, trong bài viết cụ thể về số dư bình quân, Luật Dương Gia thống nhất rằng: Số dư bình quân là số dư bình quân đơn giản hoặc bình quân gia quyền của tài khoản tài chính trong một khoảng thời gian nhất định. Hay nói dễ hiểu, số dư trung bình đề cập đến số tiền trung bình có trong tài khoản trong một khoảng thời gian nhất định. Số dư bình quân có thể được chia thành nhiều loại căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, nếu xét đến nội dung thì số dư bình quân được chia thành số dư bình quân chưa thanh toán và số dư bình quân thu được của các khoản tiền gửi tại ngân hàng. Tuy nhiên, khi phân tích cụ thể về các số dự bình quân cụ thể thì người ta thường xác định theo thời gian, tức là xác định 1 ngày, 1 tháng, 1 quý hay nửa năm.
Số dư thu tiền bình quân là một thuật ngữ tiền tệ có liên quan đến các điều khoản kế toán ngân hàng. Số dư thu được bình quân có thể được định nghĩa là số dư của các quỹ chưa thu được tích lũy trong tài khoản của một cá nhân hoặc tài khoản của một tổ chức kinh doanh trong một khoảng thời gian cụ thể. Các khoản tiền gửi chưa được xóa và chưa thu được trừ vào số dư bình quân đã thu trước khi tính toán. Số dư thu thập trung bình có thể được tính bằng cách cộng số dư thu thập hàng ngày từ tài khoản của cá nhân và tổ chức kinh doanh, sau đó chia số tiền với tổng số ngày trong thời kỳ được chỉ định.
Số dư thu bình quân = Số dư thu được trong tài khoản hàng ngày / Số ngày trong kỳ
Công dụng chính của số dư bình quân thu được là để tính số tiền lãi được cộng dồn trên số tiền đã thu. Điều này cho thấy số tiền lãi phải trả trên số dư hàng tháng. Một điều cần lưu ý là các quỹ chưa được thu không chịu lãi suất đối với chúng nên chúng không được tích lũy trong số dư bình quân đã thu. Đối với tài khoản cá nhân hoặc tài khoản ngân hàng ở cấp độ cá nhân, chênh lệch giữa số dư thu bình quân và số dư hàng ngày thường nhỏ và không đáng kể, tuy nhiên đối với một đơn vị kinh doanh, chênh lệch này có thể rất lớn tùy thuộc vào tình trạng tài chính của đơn vị.
Nói một cách ngắn gọn, số dư bình quân thu được là số dư bình quân của các khoản tiền đã thu (trừ đi các khoản tiền gửi chưa được xử lý hoặc chưa được thu thập) trong tài khoản ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một tháng. Số dư đã thu bình quân được tính bằng cách cộng tất cả các số dư đã thu hàng ngày trong kỳ và chia cho số ngày trong kỳ. Thông thường, các ngân hàng in thông tin này trên bảng sao kê hàng tháng.
Các ngân hàng sử dụng số dư thu được bình quân để xác định số tiền lãi họ phải trả hàng tháng cho chủ tài khoản của họ. Các khoản tiền thu được là những khoản tiền đã xóa ngân hàng và đại diện cho phần tiền gửi ngân hàng hiện có. Các quỹ đã thu được sẽ sinh lãi, trong khi các quỹ chưa thu không được lãi.
Các khoản tiền chưa thu được là các khoản tiền gửi ngân hàng chưa đối chiếu. Một ví dụ về điều này sẽ là khi một chủ tài khoản đã gửi séc, nhưng tiền vẫn chưa thoát khỏi hệ thống ngân hàng. Các khoản tiền phải được chuyển từ tổ chức tài chính này sang tổ chức tài chính khác. Khi séc rõ ràng, số tiền sau đó sẽ được bao gồm trong số dư thu được trung bình cho tài khoản.
Đối với hầu hết các cá nhân, sự khác biệt giữa số dư trung bình hàng ngày và số dư thu thập trung bình sẽ nhỏ. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp thực hiện nhiều giao dịch với số tiền lớn mỗi tháng, nó có thể là khá đáng kể. Các ngân hàng phải tính toán cẩn thận số dư thu được bình quân để đảm bảo họ trả lãi chính xác cho chủ tài khoản của mình.
Khi tính toán số dư thu được bình quân cho một tài khoản, các ngân hàng không xem xét bất kỳ khoản tiền gửi nào chưa được xử lý hoặc chưa được thu thập. Ngân hàng cộng tất cả các số dư đã thu hàng ngày trong kỳ (thường là một tháng) và chia số tiền này cho số ngày trong kỳ. Kết quả là số dư đã thu bình quân trong kỳ
2. Nội dung về số dư bình quân thu được của các khoản tiền gửi tại ngân hàng:
2.1. Số dư bình quân thu được và các loại tài khoản khách hàng:
Ngân hàng thương mại trả lãi tiền gửi của khách hàng. Nhiều dạng tài khoản tiền gửi tồn tại, bao gồm tài khoản séc, tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản thị trường tiền tệ và chứng chỉ tiền gửi (CD).
Tài khoản séc cho phép cả rút tiền và gửi tiền (và còn được gọi là tài khoản không kỳ hạn hoặc tài khoản giao dịch). Tài khoản tiết kiệm cũng là tài khoản tiền gửi cung cấp một mức lãi suất khiêm tốn. Các ngân hàng hoặc tổ chức tài chính có thể giới hạn số lần rút tiền mà khách hàng có thể thực hiện từ tài khoản tiết kiệm mỗi tháng. Tổ chức cũng có thể tính phí nếu khách hàng không duy trì số dư trung bình hàng tháng nhất định. Trong hầu hết các trường hợp, các ngân hàng không cung cấp séc bằng tài khoản tiết kiệm.
Tài khoản tiền gửi cuộc gọi cung cấp những lợi thế của cả tài khoản tiết kiệm và tài khoản séc, trong khi tài khoản thị trường tiền tệ có thể là loại quỹ tương hỗ, cung cấp giỏ các công cụ thị trường tiền tệ. CDs là một chứng chỉ tiết kiệm có thời gian đáo hạn cố định và lãi suất cố định.
2.2. Số dư bình quân thu được và thu nhập từ lãi:
Tiền lãi do chủ sở hữu của các tài khoản tiền gửi nhất định phải trả đối với ngân hàng. Chúng là các khoản nợ phải trả vì chúng thể hiện nghĩa vụ tài chính mà ngân hàng phải có đối với chủ tài khoản tiền gửi mà ngân hàng chưa thanh toán. Số dư bình quân thu được thể hiện toàn bộ số tiền mà ngân hàng phải trả lãi (không bao gồm bất kỳ khoản tiền nào chưa được thu).
Các ngân hàng thương mại kiếm được doanh thu, dựa trên số tiền họ nắm giữ trong các số dư đã thu. Với những khoản tiền này, họ có thể cung cấp các khoản vay, bao gồm cả thế chấp, cho vay mua ô tô, cho vay kinh doanh và cho vay cá nhân. Một ngân hàng thương mại có thể chỉ chuyên về một hoặc một số loại cho vay. Lãi suất ngân hàng trả cho các khoản tiền mà họ vay nhỏ hơn lãi suất tính trên số tiền họ cho vay. Chênh lệch này bằng với thu nhập lãi ròng, hoặc lợi nhuận, mà một ngân hàng thương mại kiếm được.
Điều quan trọng khi nhắc đến số dư bình quân thu được, người đọc phải nắm rõ được các vấn đề:
– Số dư thu được bình quân đề cập đến số dư trung bình của các khoản tiền đã thu được trong tài khoản ngân hàng trong một thời gian nhất định, thường là một tháng.
– Các ngân hàng tính toán số dư thu được trung bình để xác định số tiền lãi họ trả cho chủ tài khoản của họ hàng tháng.
– Khi tính toán số dư thu tiền bình quân, các ngân hàng không bao gồm các khoản tiền gửi chưa được chuẩn bị hoặc chưa được thu thập.
– Các khoản tiền chưa thu được là các khoản tiền gửi chưa qua hệ thống ngân hàng và không đủ điều kiện để hưởng lãi.
Quan trọng: Các ngân hàng thường giữ lại séc đã ký gửi với số tiền lớn, mã hóa chúng là “UCF” hoặc “UF” cho các khoản tiền chưa được thu. Tuy nhiên, họ có thể cung cấp một phần tiền gửi ngay lập tức nếu khách hàng có quan hệ tốt với ngân hàng.
Thực tế, các ngân hàng thường tập trung chủ yếu vào số dư bình quân nói chung hơn cả, bởi tính bao quát của nó, khi nhắc đến số dư bình quân thì các ngân hàng buộc phải tính đến tất cả mọi mặt. Nội dung về số dư bình quân thu được từ tài khoản ngân hàng có ý nghĩa quan trọng, giúp cho ngân hàng tính toán được năng lực làm việc cũng như đánh giá thực tế để đưa ra các phương án giải quyết tối ưu nhất. So sánh với các số dư bình quân khác thì khá khập khiểng bởi mỗi số dư sẽ đóng vai trò nhất định và để xác định được chính xác thì ngân hàng buộc phải có các phương pháp và chế độ kiểm tra, giám sát cũng cần được kiểm tra để tránh sai sót trong quá trình thực hiện tìm ra số dư bình quân.