Quy trình sản xuất như vậy đạt được tỷ lệ sản lượng cao với chi phí đơn vị thấp, với chi phí thấp hơn dự kiến khi sản lượng tăng. Sản xuất hàng loạt là gì cũng như nhữnh ưu nhược điểm và ví dụ minh họa chắc hẳn là một vấn đề rất được quan tâm cho đến giai đoạn hiện nay.
Mục lục bài viết
1. Sản xuất hàng loạt là gì?
Khái niệm sản xuất hàng loạt:
Có thể chia quá trình sản xuất của doanh nghiệp thành những loại hình khác nhau dựa theo các tiêu thức khác nhau như số lượng và đặc điểm của sản phẩm sản xuất; kết cấu của sản phẩm; tính chất của quá trình sản xuất hoặc khả năng tự chủ trong sản xuất của doanh nghiệp.
Sản xuất hàng loạt được hiểu cơ bản chính là một trong những hình thức sản xuất khi phân loại theo số lượng sản phẩm sản xuất và tính chất lặp lại.
Sản xuất hàng loạt là loại hình trung gian giữa sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng khối. Cụ thể như sau:
– Sản xuất đơn chiếc được hiểu là hình thức sản xuất diễn ra trong các doanh nghiệp có số chủng loại sản xuất nhiều nhưng sản lượng mỗi loại được sản xuất rất nhỏ.
Quá trình sản xuất không lặp lại, thường được tiến hành một lần. Thường mỗi loại sản phẩm người ta chỉ sản xuất một chiếc hoặc vài chiếc.
– Sản xuất hàng khối là hình thức sản xuất diễn ra trong các doanh nghiệp có số chủng loại sản phẩm được sản xuất ra ít với khối lượng hàng năm lớn.
Quá trình sản xuất ổn định, ít khi có sự thay đổi về kết cấu sản phẩm và yêu cầu kĩ thuật gia công sản phẩm.
Sản xuất hàng loạt trong tiếng Anh được gọi là: mass production hay flow production hay continuous production.
2. Đặc điểm của sản xuất hàng loạt:
Sản xuất hàng loạt xảy ra cũng phù hợp với các doanh nghiệp sản xuất có số chủng loại sản phẩm tương đối nhiều nhưng khối lượng hàng năm mỗi loại chưa đủ lớn để có thể hình thành một dây chuyền sản xuất độc lập.
Mỗi bộ phận sản xuất phải gia công chế biến nhiều loại sản phẩm được lặp đi lặp lại theo chu kì. Với mỗi loại sản phẩm thì người ta cũng sẽ thường đưa vào sản xuất theo từng loạt nên chúng mang tên là sản xuất hàng loạt.
Ví dụ của loại hình sản xuất này là sản xuất trong ngành cơ khí, dệt may, điện dân dụng, đồ gỗ nội thất, sản phẩm cơ khí,điện tử chuyên dùng… với những đặc trưng chủ yếu sau:
– Máy móc thiết bị chủ yếu là thiết bị đa năng.
Máy móc thiết bị chủ yếu là thiết bị đa năng được sắp xếp bố trí thành những phân xưởng chuyên môn hoá công nghệ. Mỗi phân xưởng đảm nhận một giai đoạn công nghệ nhất định của quá trình sản xuất sản phẩm.
– Năng suất lao động tương đối cao.
Chuyên môn hoá sản xuất không cao nhưng quá trình sản xuất lặp đi lặp lại một cách tương đối ổn định nên năng suất lao động tương đối cao.
Mỗi bộ phận sản xuất gia công nhiều loại sản phẩm khác nhau về yêu cầu kĩ thuật và quy trình công nghệ nên tổ chức sản xuất thường rất phức tạp.
3. Ưu điểm, nhược điểm và ví dụ của sản xuất hàng loạt:
Ưu điểm của sản xuất hàng loạt:
Sản xuất hàng loạt có nhiều lợi thế. Nếu quá trình sản xuất được giám sát nghiêm ngặt, việc sản xuất hàng loạt có thể mang lại độ chính xác cao vì máy móc trong dây chuyền sản xuất có các thông số cài đặt trước. Sản xuất hàng loạt cũng dẫn đến chi phí thấp hơn vì quy trình sản xuất dây chuyền lắp ráp tự động đòi hỏi ít công nhân hơn.
Ngoài ra, sản xuất hàng loạt có thể tạo ra mức hiệu quả cao hơn vì các mặt hàng sản xuất hàng loạt có thể được lắp ráp với tốc độ nhanh hơn thông qua tự động hóa. Việc lắp ráp nhanh chóng hỗ trợ việc phân phối và tiếp thị nhanh chóng các sản phẩm của tổ chức, do đó, có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh và lợi nhuận cao hơn cho công ty.
Nhược điểm của sản xuất hàng loạt:
Tuy nhiên, không phải mọi thứ về sản xuất hàng loạt đều có lợi. Việc thiết lập một dây chuyền lắp ráp tự động đòi hỏi nhiều vốn và đòi hỏi sự đầu tư trước đáng kể về thời gian và nguồn lực. Nếu có sai sót trong thiết kế sản xuất, có thể cần đầu tư nhiều thời gian và tiền bạc để thiết kế lại và xây dựng lại các quy trình sản xuất hàng loạt.
Việc sửa đổi các quy trình sản xuất hàng loạt có thể được yêu cầu vì những lý do khác ngoài lỗi.
Mặc dù lợi thế của sản xuất hàng loạt là có thể giảm chi phí lao động, nhưng những nhân viên vẫn là một phần của dây chuyền lắp ráp có thể thiếu động lực vì nhiệm vụ của họ lặp đi lặp lại. Sự nhàm chán do công việc lặp đi lặp lại có thể dẫn đến tinh thần của nhân viên thấp và tăng mức doanh thu .
Ví dụ về sản xuất hàng loạt:
Henry Ford cũng chính là người sáng lập Ford Motor Company, Henry Ford đã phát triển kỹ thuật dây chuyền lắp ráp sản xuất hàng loạt. Năm 1913, ông Henry Ford đi tiên phong trong dây chuyền lắp ráp chuyển động để sản xuất ô tô Ford Model T. Thời gian sản xuất các bộ phận giảm cho phép công ty áp dụng phương pháp tương tự để lắp ráp khung gầm và giảm đáng kể thời gian chế tạo ô tô Model T.
Ford tiếp tục cải tiến quy trình, thậm chí ông cũng đã thuê một người đã nghiên cứu cách mọi người di chuyển hiệu quả nhất. Từ năm 1908 đến năm 1927, Ford đã chế tạo 15 triệu chiếc xe Model T. Kết quả của việc sản xuất hàng loạt của Ford, ô tô đã trở thành thứ mà công chúng có thể mua được, chứ không phải là một mặt hàng xa xỉ mà chỉ một số ít người được tiếp cận.
4. Tìm hiểu về cách mạng công nghiệp:
Nguyên tắc của phân công lao động và kết quả là chuyên môn hóa các kỹ năng có thể được tìm thấy trong nhiều hoạt động của con người, và có những ghi chép về việc áp dụng nó vào sản xuất ở Hy Lạp cổ đại.
Những ví dụ mà chúng ta không thể nhầm lẫn đầu tiên về hoạt động sản xuất được thiết kế cẩn thận để giảm chi phí sản xuất bằng lao động chuyên biệt và sử dụng máy móc đã xuất hiện vào thế kỷ 18 ở Anh. Chúng được đánh dấu bằng 5 phát minh quan trọng trong ngành dệt may cụ thể đó chính là những phát minh sau đây:
– John Kay: dệt với con thoi vào năm 1733, cho phép dệt các khổ vải lớn hơn và tăng tốc độ dệt đáng kể.
– Edmund Cartwright với khung dệt điện vào năm 1785, tốc độ dệt vẫn tăng hơn nữa.
– James Hargreaves của quay jenny năm 1764.
– Richard Arkwright của khung nước năm 1769.
– Con la quay của Samuel Crompton vào năm 1779. Ba phát minh cuối cùng đã cải thiện tốc độ và chất lượng của các hoạt động kéo sợi.
Một phát minh thứ 6 đó chính là động cơ hơi nước và nó đã được hoàn thiện bởi James Watt và đây cũng chính là chìa khóa cho sự phát triển nhanh chóng hơn nữa. Sau khi thực hiện những cải tiến lớn trong thiết kế động cơ hơi nước vào năm 1765, James Watt tiếp tục phát triển và cải tiến động cơ này cho đến năm 1785, ông đã sử dụng thành công một động cơ này trong một nhà máy bông. Một khi sức người, động vật và nước có thể được thay thế bằng một nguồn năng lượng động cơ chi phí thấp đáng tin cậy, thì cuộc Cách mạng Công nghiệp đã được thiết lập một cách rõ ràng và những thế kỷ tiếp theo sẽ chứng kiến những phát minh và đổi mới mà chúng ta không bao giờ có thể tưởng tượng được.
Năm 1776 Adam Smith, trong Wealth of Nations đã quan sát thấy những lợi ích then chốt của chuyên môn hóa lao động trong sản xuất. Mặc dù các nhà quan sát trước đó đã ghi nhận hiện tượng này, các bài viết của Smith đã thu hút sự chú ý rộng rãi và giúp nâng cao nhận thức về sản xuất công nghiệp và mở rộng sức hấp dẫn của nó.
Bước tiến lớn tiếp theo được thực hiện vào năm 1797 khi Eli Whitney một nhà phát minh ra gin bông, ông đã đề xuất sản xuất đá lửa với các sản phẩm có thể hoán đổi cho nhau , trái ngược với phương pháp cũ, theo đó mỗi khẩu súng là sản phẩm riêng biệt của một thợ súng có tay nghề cao và mỗi bộ phận được lắp bằng tay.
Trong cùng thời gian đó, những ý tưởng tương tự đã được thử nghiệm ở châu Âu. Ở Anh, Marc Brunel là một nhà phát minh và kỹ sư người Pháp, đã thành lập dây chuyền sản xuất các khối (ròng rọc) cho tàu buồm, sử dụng các nguyên tắc phân công lao động và các bộ phận tiêu chuẩn hóa. Máy công cụ Brunel được thiết kế và chế tạo bởi Henry Maudslay, người được mệnh danh là cha đẻ của ngành máy công cụ.
Maudslay nhận ra tầm quan trọng của các công cụ chính xác có thể sản xuất gia công các sản phẩm, chi tiết cơ khí giống hệt nhau; ông và học trò của mình, Joseph Whitworth, cũng sản xuất bu lông và đai ốc bằng kim loại tiêu chuẩn hóa có thể hoán đổi cho nhau.
Vào giữa thế kỷ 19, các khái niệm chung được sử dụng để định nghĩa về phân công lao động, sản xuất có sự hỗ trợ của máy móc và lắp ráp các linh kiện tiêu chuẩn hóa đã được hình thành. Các nhà máy lớn đang hoạt động ở cả hai bên bờ Đại Tây Dương và một số ngành công nghiệp, chẳng hạn chúng ta có thể kể đến như dệt và thép, đang sử dụng các quy trình, máy móc và thiết bị có thể được nhận biết ngay cả vào đầu thế kỷ 21.
Sự tăng trưởng của ngành sản xuất được thúc đẩy bởi sự mở rộng nhanh chóng của đường sắt, sà lan, tàu thủy và đường bộ, phương tiện đi lại. Các công ty vận tải mới không chỉ cho phép các nhà máy thu được nguyên liệu thô và vận chuyển thành phẩm qua những khoảng cách ngày càng lớn, mà còn tạo ra nhu cầu đáng kể về sản lượng của các ngành công nghiệp mới.
Vào thời điểm này trong cuộc Cách mạng Công nghiệp, các phương pháp và quy trình được sử dụng để nhằm mục đích tổ chức lao động của con người, lập kế hoạch và kiểm soát dòng công việc cũng như xử lý vô số chi tiết tại khu vực xưởng sản xuất phần lớn là không chính thức và dựa trên các mẫu và tiền lệ lịch sử.
Đây cũng chính là điểm xuất phát của Cách mạng Công nghiệp và quá trình hình thành của sản xuất hàng loạt.