Sản phẩm bình quân được hiểu cơ bản là số lượng đơn vị được sản xuất từ một đơn vị sản xuất. Một số thuật ngữ liên quan?
Sản phẩm bình quân là một thuật ngữ quen thuộc và được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế tài chính. Sản phẩm bình quân chính là thước đo năng suất cho thấy các yếu tố sản xuất cụ thể là như thế nào trong thực tiễn. Chắc hẳn hiện nay vẫn còn nhiều người chưa hiểu rõ về thuật ngữ này.
Mục lục bài viết
1. Tìm hiểu về sản phẩm bình quân:
Khái niệm sản phẩm bình quân:
Sản phẩm bình quân được hiểu cơ bản là số lượng đơn vị được sản xuất từ một đơn vị sản xuất. Nói một cách khác, sản phẩm bình quân chính là thước đo năng suất cho thấy các yếu tố sản xuất là như thế nào, bằng cách so sánh tổng sản phẩm được sản xuất và số lượng đầu vào cần thiết để sản xuất một sản phẩm.
Sản phẩm bình quân chính là tổng sản lượng thu được từ quá trình kết hợp các nhân tố sản xuất chia cho lượng của số đầu vào đó. Như vậy, ta nhận thấy sản phẩm bình quân của lao động bằng tổng sản lượng chia cho tổng số lao động sử dụng.
Khi sản phẩm bình quân tăng, năng suất của đầu vào cũng tăng. Cũng chính bởi vì nguyên nhân đó mà sản phẩm bình quân càng cao, đầu vào càng hiệu quả. Nói chung, mối quan hệ giữa tổng sản phẩm và các yếu tố sản xuất là tuyến tính. Nhưng một khi đạt đến một điểm nhất định, các yếu tố giới hạn bắt đầu xuất hiện.
Để có thể tính được công thức sản phẩm bình quân, các chủ thể sẽ phải biết tổng sản phẩm hoặc sản phẩm hiện vật bình quân (APP). Tổng sản phẩm được chia cho số lượng đầu vào khả biến để có thể tìm sản phẩm bình quân.
Sản phẩm bình quân = Tổng sản phẩm / Đầu vào khả biến.
Sản phẩm bình quân trong tiếng Anh là gì?
Sản phẩm bình quân trong tiếng Anh là Average Product.
Ví dụ về sản phẩm bình quân:
Bảng cụ thể dưới đây tóm tắt quá trình sản xuất hàng giờ của một công ty sản xuất bánh Taco. Tổng sản phẩm (Total product) được dùng để nhằm mục đích tính sản phẩm bình quân (Average product).
Labor | Total Product | Average Product |
0 | 0 | |
1 | 20 | 20.00 |
2 | 50 | 25.00 |
3 | 75 | 25.00 |
4 | 95 | 23.75 |
5 | 110 | 22.00 |
6 | 120 | 20.00 |
7 | 125 | 17.86 |
8 | 125 | 15.63 |
9 | 120 | 13.33 |
10 | 110 | 11.00 |
Cột bên trái là đầu vào khả biến, cụ thể là số lượng công nhân (Labor) làm việc cho công ty, con số dao động từ 0 đến 10.
Cột bên cạnh là tổng sản phẩm (Total product), tổng số bánh Taco được sản xuất, nằm trong khoảng từ mức thấp 0 đến mức cao 125 trước khi giảm xuống 110.
Các chủ thể cũng sẽ cần nhớ rằng, việc sản xuất taco từ những công nhân này phụ thuộc vào lượng nhất định của đầu vào cố định, là nhà hàng bán taco và tất cả vốn đi kèm.
Cột cuối cùng là sản phẩm bình quân (Average product) đã được tính theo công thức phía trên.
– Đầu tiên, xem xét sản phẩm bình quân cho lực lượng lao động của công ty khi chỉ sử dụng 1 công nhân. Với 1 công nhân, tổng sản lượng là 20 taco mỗi giờ. Như vậy sản phẩm bình quân là 20 taco.
– Tiếp theo, xem xét sản phẩm bình quân nếu công ty sử dụng 2 công nhân. Trong trường hợp này, tổng sản lượng mỗi giờ là 50 taco. Chia 50 taco cho 2 công nhân, ta được sản phẩm bình quân là 25 taco.
– Cuối cùng, xét thêm một phép tính. Nếu công ty sử dụng 3 công nhân, tổng sản lượng hàng giờ tăng lên 75 taco. Chia 75 taco cho 3 công nhân, ta được sản phẩm bình quân là 24 taco.
Các giá trị sản phẩm bình quân còn lại cũng được tính theo cách tương tự.
Theo quan sát, ta có thể thấy:
– Đầy tiên, sản phẩm bình quân tăng khi số lượng công nhân tăng lên 2, đạt mức cao nhất là 25 taco mỗi công nhân mỗi giờ với 2 hoặc 3 công nhân làm việc. Sau nó đó bắt đầu giảm.
– Thứ hai, sự sụt giảm trong sản phẩm bình quân này là sự gián tiếp gây ra bởi qui luật hiệu suất cận biên giảm dần.
– Thứ ba, mặc dù có thể không thấy hết được trong bảng này, sản phẩm bình quân tiếp tục giảm khi lực lượng lao động của công ty mở rộng, nhưng sản phẩm bình quân không bao giờ âm. Để sản phẩm bình quân âm, tổng sản phẩm phải âm và điều đó thì không có ý nghĩa.
Đường sản phẩm bình quân:
Đường sản phẩm bình quân chính là một biểu diễn bằng đồ họa của các mối quan hệ giữa sản phẩm bình quân và các yếu tố đầu vào khả biến.
Độ dốc thông thường của đường sản phẩm bình quân là đi xuống, với đầu ra trên mỗi đơn vị thấp hơn khi số lao động lớn hơn. Tuy nhiên, cũng có trường hợp đường sản phẩm bình quân thực tế sẽ có hình dạng cái bướu, với độ dốc đi lên trước khi đi xuống.
2. Một số thuật ngữ liên quan:
Sản lượng:
Sản lượng hay đầu ra được hiểu là hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra bằng mẹo hòa hợp các đầu vào nhân tố. Để có thể thuận lợi cho nghiên cứu, trong bảng cân đối liên ngành nghề, người đọc còn gọi sản lượng là đầu ra.
Khái niệm về tổng sản lượng:
Tổng sản lượng là một khái niệm trong kinh tế học quản trị, có ký hiệu là TP. Tổng sản lượng chính là mức sản lượng được sản xuất ra từ các mức khác nhau của một yếu tố đầu vào kết hợp với các mức cố định của các yếu tố khác.
Khái niệm tổng sản lượng khái niệm là khởi đầu để nhằm mục đích có thể tính toán nhiều chỉ tiêu kinh tế, kinh doanh, nhất là phân tích ngắn hạn.
Khi thực hiện việc xem xét các nhân tố tác động đến tổng sản lượng, nhà quản lý có thể đi đến quyết định dịch chuyển nhân tố nào để tối ưu hóa quá trình sản xuất.
Tổng sản lượng cũng là từ đồng nghĩa với GDP, tổng sản lượng là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sở dĩ chúng ta không đưa ra sản lượng hàng hóa và dịch vụ trung gian vào tổng sản lượng là giá trị của chúng ta đã nằm trong hàng hóa và dịch vụ cuối cùng. Mục đích của cách làm này là tránh tính trùng.
Trong kinh tế, tổng sản lượng cũng là một thuật ngữ khác cho tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Bản chất tổng sản phẩm quốc nội chính là tổng giá trị của hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nền kinh tế và thường được đo lường trong một năm tài chính. Tổng sản phẩm quốc nội thể hiện sản lượng hàng hóa và dịch vụ theo giá thị trường. Thuật ngữ “trong nước” có nghĩa là đo lường đầu ra từ bên trong biên giới của một quốc gia. Chính vì thế, chỉ số đo lường này vốn đã loại trừ thu nhập ròng từ nước ngoài.
Các yếu tố sản xuất:
Ta hiểu yếu tố sản xuất là các yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất và bán sản phẩm, dịch vụ của công ty.
Đất đai, lao động và vốn là các yếu tố sản xuất ban đầu được xác định bởi các chủ thể là những nhà kinh tế chính trị đầu tiên như Adam Smith, David Ricardo và Karl Marx. Ngày nay, vốn và lao động vẫn là hai yếu tố đầu vào chính cho các quy trình sản xuất và tạo ra lợi nhuận của một doanh nghiệp. Cụ thể các yếu tố sản xuất như sau:
– Đất:
Đất có thể có nhiều hình thức khác nhau, từ đất nông nghiệp đến bất động sản thương mại đến các tài nguyên có sẵn từ một mảnh đất cụ thể.
– Lao động:
Lao động đề cập đến nỗ lực của một cá nhân để đưa sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường.
Đối với các chủ thể là những nhà kinh tế chính trị thời kỳ đầu, lao động là yếu tố quan trọng của giá trị kinh tế. Công nhân sản xuất sẽ được trả tiền cho thời gian và nỗ lực của họ, trong đó, tiền lương phụ thuộc vào kĩ năng và quá trình đào tạo của họ.
Lao động của một công nhân ít học và không được đào tạo thường được trả với giá thấp. Công nhân lành nghề và được đào tạo được gọi là nguồn nhân lực và sẽ được trả lương cao hơn vì họ mang lại nhiều của cải vật chất hơn.
– Vốn hiện vật:
Trong kinh tế, vốn thường đề cập đến tiền. Nhưng tiền không phải là một yếu tố sản xuất bởi vì nó không liên quan trực tiếp đến việc sản xuất hàng hóa hay dịch vụ. Vốn hiện vật được sử dụng trong quy trình sản xuất bằng cách cho phép doanh nghiệp mua hàng hóa, đất đai hoặc trả lương.
Vốn hiện vật chính kà một yếu tố của sản xuất, vốn đề cập đến việc mua hàng hóa bằng tiền để phục vụ sản xuất.
Điều quan trọng là phải phân biệt vốn cá nhân và tư nhân trong các yếu tố sản xuất. Một phương tiện cá nhân được sử dụng để đi lại phục vụ mục đích cá nhân không được coi là yếu tố sản xuất hay tư liệu sản xuất. Nhưng một chiếc xe thương mại được sử dụng rõ ràng cho mục đích kinh doanh được coi là một yếu tố sản xuất.
Trong thời kì kinh tế bị suy thoái hoặc khi các chủ thể kinh tế bị thua lỗ, các công ty đã cắt giảm chi tiêu vốn để đảm bảo lợi nhuận. Tuy nhiên, trong thời kỳ mở rộng kinh tế, họ đầu tư vào máy móc và thiết bị mới để đưa sản phẩm mới ra thị trường.
– Năng lực kinh doanh:
Năng lực kinh doanh là yếu tố kết hợp tất cả các yếu tố sản xuất khác vào sản phẩm hoặc dịch vụ cho thị trường tiêu dùng.