Trong cuộc sống của chúng ta luôn tồn tại những rủi ro từ các nguyên nhân khác nhau, đối vưới một doanh nghiêp cũng như vậy, một trong các rủi ro có thể dẫn đến tình trạng công ty lâm vào tình trạng vỡ nợ mà chưa có cách thức để giải quyết. Vậy rủi ro vỡ nợ là gì? Bản chất và các loại rủi ro vỡ nợ thực tế?
Mục lục bài viết
1. Rủi ro vỡ nợ là gì?
Rủi ro vỡ nợ hay còn gọi là rủi ro phá sản trong tiếng Anh là ” Default Risk”.
Khi nhắc tới vấn đề rủi ro vỡ nợ chúng ta hiểu đây là thuật ngữ dùng khi một công ty hoặc cá nhân không có khả năng thực hiện các khoản thanh toán cần thiết cho các nghĩa vụ nợ của họ và theo đó người cho vay và nhà đầu tư phải chịu rủi ro vỡ nợ trong hầu hết các dạng gia hạn tín dụng một công ty mức độ rủi ro cao hơn sẽ có lợi nhuận cao hơn, hay lãi suất cao hơn.
2. Bản chất và các loại rủi ro vỡ nợ thực tế:
2.1. Bản chất của các loại rủi ro vỡ nợ thực tế:
Bản chất của loại rủi ro vỡ nợ có thể được đánh giá bằng các công cụ đo lường tiêu chuẩn khác nhau nó bao gồm điểm FICO cho tín dụng tiêu dùng và xếp hạng tín dụng cho các vấn đề nợ của công ty và chính phủ.
Bên cạnh đó ta thấy rằng các loại rủi ro vỡ nợ có thể thay đổi do những thay đổi trong nền kinh tế hoặc thay đổi trong tình hình tài chính của công ty suy thoái kinh tế có thể ảnh hưởng đến doanh thu và thu nhập của nhiều công ty, ảnh hưởng đến khả năng trả lãi cho các khoản nợ và cuối cùng là trả nợ và với các công ty có thể phải đối mặt với các yếu tố như gia tăng mức cạnh tranh hay sức mạnh định giá thấp hơn, dẫn đến một kịch bản tương tự, các công ty cần tạo ra thu nhập ròng và dòng tiền đủ lớn để giảm thiểu rủi ro vỡ nợ.
Như vậy ta thấy nếu trong trường hợp vỡ nợ, các nhà đầu tư có thể mất các khoản thanh toán lãi định kỳ và khoản đầu tư của họ vào trái phiếu và với một mặc định có thể dẫn đến mất 100% đầu tư để giảm thiểu tác động của rủi ro vỡ nợ, người cho vay thường tính tỷ lệ hoàn vốn tương ứng với mức rủi ro vỡ nợ của con nợ.
Người cho vay thường kiểm tra báo cáo tài chính của một công ty và sử dụng một số tỷ lệ tài chính để xác định khả năng trả nợ của công ty đó và công ty vẫn có thể vỡ nợ cho dù khoản nợ có thể đã được trả, nhưng một số điều kiện của khoản vay không thể được đáp ứng.
Dòng tiền tự do là số tiền mặt được tạo ra sau khi công ty tái đầu tư và được tính bằng cách trừ chi phí vốn cho dòng tiền từ hoạt động kinh doanh với dòng tiền tự do được sử dụng cho những thứ như thanh toán nợ và cổ tức và với con số dòng tiền tự do gần bằng 0 hoặc âm cho thấy công ty có thể gặp khó khăn trong việc tạo ra lượng tiền mặt cần thiết để thực hiện các khoản thanh toán đã hứa.
2.2. Các loại rủi ro vỡ nợ thực tế:
Điểm tín dụng được thiết lập bởi các cơ quan xếp hạng có thể được nhóm thành hai loại cụ thể đó là cấp đầu tư và cấp không đầu tư nợ cấp đầu tư được coi là có rủi ro vỡ nợ thấp và thường được các nhà đầu tư tìm kiếm nhiều hơn và ngược lại, nợ cấp không đầu tư mang lại lợi suất cao hơn nhưng nó cũng đi kèm với cơ hội vỡ nợ cao hơn nhiều.
Trong khi các thang điểm được sử dụng bởi các cơ quan xếp hạng cso sự khác nhau, hầu hết các khoản nợ đều được phân loại giống nhau. Các trái phiếu nào được S&P xếp hạng AAA, AA, A hoặc BBB đều được coi là nằm trong cấp đầu tư. Bất cứ điều gì được xếp hạng BB trở xuống được coi là cấp không đầu tư (rác).
Rủi ro vỡ nợ được dùng khi một công ty hoặc cá nhân không có khả năng thực hiện các khoản thanh toán nợ cần thiết với dòng tiền tự do gần bằng 0 hoặc âm cho thấy công ty có thể gặp khó khăn trong việc tạo ra tiền mặt đủ để thực hiện các khoản thanh toán đã hứa, điều này có thể cho thấy rủi ro vỡ nợ cao hơn.
Rủi ro vỡ nợ có thể được đánh giá bằng cách sử dụng các công cụ đo lường tiêu chuẩn: điểm đánh giá FICO cho tín dụng tiêu dùng, xếp hạng tín dụng theo S&P và xếp hạng tín dụng của Moody cho các khoản nợ của công ty và chính phủ.
3. Rủi ro tín dụng và những hệ quả:
Như chúng ta đã biết rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh trên thực tế với nguyên nhân do khách hàng vay không thực hiện đúng các điều khoản của hợp đồng tín dụng, với biểu hiện cụ thể là khách hàng chậm trả nợ, trả nợ không đầy đủ hoặc không trả nợ khi đến hạn các khoản gốc và lãi vay, gây ra những tổn thất về tài chính và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cũng theo đó chúng tôi đưa ra quan điểm về các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng được phân loại gồm:
Nhóm nguyên nhân từ môi trường: Cũng như hoạt động của các chủ thể kinh tế khác, hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách quan từ môi trường kinh tế, môi trường chính trị, đặc điểm văn hóa – xã hội, môi trường pháp lý và các tác động chung của khu vực và địa phương…
Nhóm nguyên nhân từ phía ngân hàng cụ thể với mỗi ngân hàng sẽ có các loại rủi ro của mỗi ngân hàng điều đó phản ánh thái độ đối với việc chấp nhận rủi ro ở giới hạn/mức độ nhất định và trong giới hạn đó, ngân hàng có khả năng và sẵn sàng để hứng chịu, khắc phục và vượt qua các rủi ro đây là một trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó thì vói việc mở rộng tín dụng không đúng tieu chuẩn và quá mức cũng tức là với việc lựa chọn khách hàng kém kỹ càng, với khả năng giám sát của cán bộ tín dụng đối với việc sử dụng khoản vay giảm xuống đồng thời cũng làm cho việc tuân thủ chặt chẽ theo quy trình tín dụng bị lơi lỏng và cùng với sự yếu kém của đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng là nguy cơ rất cao xảy ra rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân từ khách hàng cũng là nguyên nhân dẫn tới rủi ro vì khách hàng có đa dạng và rất nhiều khoản vay của khách hàng với mục đích đầu tư vào các danh mục đầu tư nhạy cảm với những biến động của thị trường và khách hàng cố tình lừa đảo để chiếm dụng vốn ngân hàng.
Một nguyên nhân khác dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng thương mại là một số công ty, trong công ty đó tổng công ty đứng ra bảo lãnh hoặc uỷ quyền cho các chi nhánh trực thuộc thực hiện vay vốn của ngân hàng thương mại để tránh sự kiểm tra giám sát của ngân hàng cho vay chính. Khi đơn vị vay vốn mất khả năng thanh toán, bên bảo lãnh và uỷ quyền không chịu thực hiện việc trả nợ thay và theo đó các loại rủi ro tín dụng dẫn đến nhiều hệ quả, cụ thể:
Nguyên nhân xuất phát từ chính ngân hang trong trường hợp nếu một ngân hàng thương mại có tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ lớn, có những thông tin về việc ngân hàng có nhiều món vay không thu hồi được hoặc ngân hàng đó bị Ngân hàng Nhà nước đưa vào diện kiểm soát đặc biệt thì uy tín của ngân hàng đó bị giảm sút nghiêm trọng và thêm vào đó rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại đối với các nguồn tiền gửi.
Trong nền kinh tế khi một khi rủi ro tín dụng xảy ra, uy tín và khả năng thanh toán của ngân hàng ảnh hưởng đầu tiên và tiếp đó, người dân và các tổ chức đang có tiền gửi tại ngân hàng kéo đến ồ ạt đến rút tiền và chấm dứt quan hệ.
Như vậy ta thấy vấn đề hòng ngừa và hạn chếrủi ro tín dụng không những là vấn đề sống còn đối với ngân hàng mà còn là yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế, góp phần vào sự ổn định và phát triển của toàn xã hội. Mục tiêu của quản lý rủi ro tín dụng là tối đa hóa lợi nhuận sau khi đã điều chỉnh rủi ro của ngân hàng với mức độ rủi ro trong giới hạn cho phép.
Như vậy với các nguy cơ rủi ro trên chúng ta cần phải có một thiết lập chính sách tín dụng phù hợp cụ thể đó là chính sách tín dụng bao gồm chính sách khách hàng, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng và chính sách lãi suất và để xây dựng chính sách tín dụng phù hợp giúp tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro, và nâng cao khả năng sinh lời.