Rủi ro là một cụm từ khá quen thuộc được sử dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Người ta chia rủi ro thành nhiều loại khác nhau phụ thuộc vào những tính chất và ý nghĩa cụ thể. Một trong số đó thì chúng ta sẽ cần kể đến rủi ro không hệ thống. Vậy rủi ro không hệ thống là gì? Các loại rủi ro không hệ thống?
Mục lục bài viết
1. Định nghĩa về rủi ro phi hệ thống:
Ta hiểu về rủi ro như sau:
Rủi ro phát sinh trên thực tế do sự biến động về lợi nhuận của an ninh của một công ty do các yếu tố kinh tế vi mô, tức là các yếu tố tồn tại trong tổ chức, được gọi là rủi ro phi hệ thống. Các yếu tố gây ra rủi ro đó cũng có những liên quan đến bảo mật cụ thể của một công ty hoặc ngành, cũng chính bởi vì chỉ ảnh hưởng đến một tổ chức cụ thể. Tổ chức có thể tránh được rủi ro nếu các hành động cần thiết được thực hiện về vấn đề này.
Ta hiểu về rủi ro không hệ thống như sau:
Rủi ro không hệ thống hay rủi ro ngẫu nhiên được hiểu cơ bản chính là bộ phận cấu thành tổng mức rủi ro trong mô hình định giá đầu tư với việc nắm giữ một loại chứng khoán cụ thể nào đó. Khác với rủi ro mang tính hệ thống hay rủi ro thị trường, rủi ro không hệ thống độc lập với những biến thiên chung của thị trường. Các biến cố chỉ gắn với một chứng khoán có thể phát sinh từ quyết định của công ty, chẳng hạn như có thể kể đên chính sách phân phối cổ tức, những thay đổi trong cơ cấu vốn và việc tuyển dụng giám đốc điều hành ở cấp cao nhất. Những thay đổi trong giá cổ phiếu của một công ty có thể dương hoặc âm tùy thuộc vào quan điểm của các chủ thể là những nhà đầu tư.
Người ta cho rằng những biến thiên không hệ thống như thế xảy ra một cách ngẫu nhiên, cho nên nếu cơ cấu cổ phiếu đủ lớn và được đa dạng hóa một cách hợp lý, các độ lệch sẽ bù trừ nhau, tức có tổng bằng 0.
Điều này hàm ý, nếu các chủ thể là những nhà đầu tư có thể loại rủi ro riêng có của từng loại chứng khoán hay rủi ro ngẫu nhiên bằng cách đa dạng hóa cơ cấu tài sản đầu tư của mình, thì sự quan tâm của họ về mức rủi ro phải chịu khi nắm giữ một tài sản có thể biểu thị hoàn toàn bằng mối quan hệ tuyến tính của hệ số bêta phản ánh rủi ro có hệ thống. Hai thành tố rủi ro có hệ thống và không hệ thống cũng đôi khi được gọi là rủi ro không thể đa hóa và rủi ro có thể đa dạng hóa (tức loại trừ được bằng cách đa dạng hóa).
2. Các loại rủi ro không hệ thống:
Rủi ro kinh doanh xuất phát từ tình trạng hoạt động của công ty, khi có những thay đổi trong tình trạng này công ty có thể sẽ bị sút giảm lợi nhuận và cổ tức. Nói cách khác, nếu lợi nhuận dự kiến tăng 10% hàng năm trong những năm tiếp theo, rủi ro kinh doanh sẽ cao hơn nếu như lợi nhuận tăng tới 14% hay giảm xuống 6% so với lợi nhuận nằm trong khoảng 9-11%. Rủi ro kinh doanh có thể được chia làm hai loại cơ bản: Bên ngoài và nội tại. Rủi ro kinh doanh nội tại phát sinh trong quá trình vận hành hoạt động của công ty. Mỗi công ty có một loại rủi ro nội tại riêng và mức độ thành công của mỗi công ty thể hiện qua hiệu quả hoạt động.
Mỗi công ty có một kiểu rủi ro bên ngoài riêng, phụ thuộc vào các yếu tố môi trường kinh doanh cụ thể của công ty. Các yếu tố bên ngoài, từ chi phí tiền vay đến sự cắt giảm ngân sách, từ mức thuế nhập khẩu tăng đến sự suy thoái của chu kỳ kinh doanh. Và có lẽ yếu tố quan trọng nhất ở đây đó chính là chu kỳ kinh doanh. Doanh số của một số ngành công nghiệp thép, ô tô có xu hướng bám sát chu kỳ kinh doanh trong khi doanh số của một số ngành khác lại có xu hướng đi ngược lại. Các chính sách chính trị cũng được đánh giá là một phần của rủi ro bên ngoài, các chính sách tiền tệ và tài khoá có thể làm ảnh hưởng đến thu nhập thông qua tác động về chi phí và nguồn vốn.
Rủi ro tài chính liên quan đến việc công ty tài trợ vốn cho hoạt động của mình. Người ta thông thường sẽ thự hiện việc tính toán rủi ro tài chính bằng việc xem xét cấu trúc vốn của một công ty. Sự xuất hiện của các khoản nợ trong cấu trúc vốn cũng sẽ tạo ra cho công ty những nghĩa vụ trả lãi mà phải được thanh toán cho chủ nợ trước khi trả cổ tức cho cổ đông nên nó có tác động lớn đến thu nhập của họ. Rủi ro tài chính được hiểu là rủi ro có thể tránh được trong phạm vi mà các chủ thể là những nhà quản lý có toàn quyền quyết định vay hay không vay. Một công ty không vay nợ chút nào thì thực chất cũng sẽ không có rủi ro tài chính.
Các công ty bằng việc đi vay, công ty đã thay đổi dòng thu nhập đối với cổ phiếu thường. Cụ thể là, việc các chủ thể sử dụng tỷ lệ vay nợ gây những hệ quả quan trọng đối với những người nắm giữ cổ phiếu thường, đó là làm tăng mức biến động trong thu nhập của các chủ thể đó, ảnh hưởng đến dự kiến của họ về thu nhập, và làm tăng rủi ro của họ.
Ví dụ cụ thể như chúng ta có hai công ty có hoạt động kinh doanh như nhau, chỉ khác nhau về cơ cấu vốn: Công ty C, nguồn vốn hoàn toàn từ 1 triệu cổ phiếu thường, bán với giá 20 đôla/1cổ phiếu. Và, một công ty khác, công ty D, có nguồn một nửa là từ cổ phiếu thường 500.000 cổ phiếu, bán với giá 20 đô la/cổ phiếu và một nửa là từ vay nợ 10 triệu USD với lãi vay là 5%.
Như vậy, ta nhận thấy rằng, tài sản có của mỗi công ty là 20 triệu USD, dự kiến sẽ có lợi nhuận 1 triệu đô la, hay là 5% trên tổng tài sản. Chúng ta giả sử rằng không có thuế thu nhập công ty. Thu nhập 1 triệu đô la có thể dễ dàng chuyển đổi sang thu nhập cho mỗi cổ phiếu. Công ty C sẽ có lãi 1 đô la/1 cổ phiếu. Công ty D phải trả lãi 500.000 đô la và phần còn lại chia cho cổ phiếu cũng được lãi 1 đô la/1cổ phiếu. Tại điểm này, cả hai công ty đều có mức thu nhập trên cổ phiếu là 1 đô la.
Chúng ta không thấy có hệ quả của việc vay nợ đối với thu nhập của cổ đông. Nhưng nếu năm tiếp sau đó, lợi nhuận cả hai công ty tăng thêm 50%, vậy trong trường hợp của công ty D, cổ đông được hưởng thêm 1 đô la/cổ phiếu nhiều hơn cổ đông của công ty C chỉ được hưởng thêm 0,5 đô la/cổ phiếu, vì lợi nhuận D lúc đó là 1,5 triệu đô la mà vẫn chỉ phải trả lãi suất 5% trên số tiền cho vay. Ngược lại, nếu lợi nhuận giảm 50% sẽ làm cho lợi nhuận trên 1 cổ phiếu của công ty C giảm xuống 50% từ 1 đô la xuống 0,5 đô la nhưng lợi nhuận trên một cổ phiếu của Công ty D sẽ giảm từ 1 xuống 0. Qua đó chúng ta thấy được những hậu quả trực tiếp mà rủi ro tài chính gây ra cho thu nhập của các chủ thể là những nhà đầu tư chứng khoán.
3. Sự khác biệt giữa rủi ro có hệ thống và không có hệ thống:
Luôn luôn có một rủi ro kết hợp trong mọi khoản đầu tư như cổ phiếu hoặc giấy nợ. Hai thành phần chính của rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống, khi kết hợp sẽ tạo ra rủi ro tổng thể. Các lỗi hệ thống là kết quả của các biến số bên ngoài và không thể kiểm soát được, không đặc trưng cho ngành hoặc an ninh và ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường dẫn đến sự biến động giá của tất cả các chứng khoán.
Mặt khác, rủi ro phi hệ thống được đề cập đến rủi ro xuất hiện ngoài các biến được kiểm soát và đã biết, cụ thể về ngành hoặc bảo mật.
Rủi ro có hệ thống không thể được loại bỏ bằng cách đa dạng hóa danh mục đầu tư, trong khi việc đa dạng hóa tỏ ra hữu ích trong việc tránh rủi ro phi hệ thống.
Sự khác biệt cơ bản giữa rủi ro có hệ thống và rủi ro phi hệ thống được đưa ra ở các điểm cụ thể được nêu sau:
– Rủi ro có hệ thống có nghĩa là khả năng xảy ra tổn thất liên quan đến toàn bộ thị trường hoặc phân khúc thị trường. Rủi ro phi hệ thống có nghĩa là rủi ro liên quan đến một ngành hoặc bảo mật cụ thể.
– Rủi ro có hệ thống là không thể kiểm soát được trong khi rủi ro phi hệ thống có thể kiểm soát được.
– Rủi ro hệ thống phát sinh do các yếu tố kinh tế vĩ mô. Mặt khác, rủi ro phi hệ thống phát sinh do các yếu tố kinh tế vi mô.
– Rủi ro có hệ thống ảnh hưởng đến một số lượng lớn chứng khoán trên thị trường. Ngược lại, rủi ro phi hệ thống có ảnh hưởng đến chứng khoán của một công ty cụ thể.
– Rủi ro có hệ thống có thể được loại bỏ thông qua một số cách như bảo hiểm rủi ro, phân bổ tài sản. Trái ngược với rủi ro phi hệ thống có thể được loại bỏ thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư.
– Rủi ro hệ thống được chia thành ba loại, cụ thể đó chính là rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường và rủi ro sức mua. Không giống như rủi ro phi hệ thống, rủi ro phi hệ thống được chia thành hai loại rủi ro kinh doanh lớn và rủi ro tài chính.