Room tín dụng là thuật ngữ được sử dụng ngày càng phổ biến ngày nay trong giới tài chính. Vậy bạn có biết cụ thể Room tín dụng là gì? Và có cần thiết phải duy trì cơ chế room tín dụng hay không? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Room tín dụng là gì?
Room không chỉ là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong tiếng anh với nghĩa là phòng. Mà đối với giới tài chính từ “room tín dụng” đã trở nên quá đỗi quen thuộc. Từ room tín dụng được sử dụng với ý nghĩa là hạn mức cho vay của ngân hàng.
Năm 2011, room tín dụng chính thức được triển khai tại Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang trải qua giai đoạn nhiều biến động với tỷ lệ lạm phát tăng cao, xuất phát từ việc cung tiền liên tục tăng, tăng với tốc độ rất cao trong nhiều năm. Để hạn chế và không để điều này tái diễn, Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng nhà nước) luôn công bố room tín dụng quy định mức tăng trưởng tín dụng tối đa vào đầu mỗi năm. Nói một cách đơn giản, room tín dụng là giới hạn cho vay của ngân hàng.
Căn cứ vào tốc độ tăng trưởng tín dụng của cả nền kinh tế, Ngân hàng nhà nước sẽ phân bổ room tín dụng cho các ngân hàng thương mại trong nước tùy thuộc vào “sức khỏe” tài chính của ngân hàng như hiệu quả quản lý tín dụng và chất lượng tín dụng.
Vậy Room tài chính có thể hiểu là hạn mức cho vay của một ngân hàng.
2. Hết room tín dụng là gì?
Hết room tín dụng là trường hợp ngân hàng không thể tiếp tục cho vay vì đã cho nhiều khách hàng vay rồi. Việc thiếu room đã ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng của ngân hàng và các hoạt động phục vụ đời sống, sản xuất kinh doanh của nhiều cá nhân, tổ chức.
Khi Ngân hàng nhà nước ấn định tốc độ tăng trưởng tín dụng tối đa cho một NHTM nhỏ hơn (cùng kỳ) năm trước và/hoặc so với các NHTM khác trong hệ thống, ta có thể hiểu rằng ngân hàng này đang có tiềm năng mức độ rủi ro cao hơn so với trước đây hoặc so với các đối thủ cạnh tranh trong cùng một mạng lưới.
Rủi ro đáng tiếc này hoàn toàn có thể xảy ra do các ngân hàng cho vay quá nhiều so với vốn tự có hoặc tập trung cho vay các lĩnh vực kinh doanh rủi ro cao như bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp…
Nếu không nới room tín dụng, tăng trưởng tín dụng có khả năng vượt quá khả năng dự phòng, khả năng cân đối vốn và năng lực quản trị của các ngân hàng thương mại. Và vỡ nợ là hậu quả lớn nhất. Như vậy, có thể hiểu việc xây dựng luật room tín dụng nhằm kiểm soát sớm, từ xa tốc độ tăng trưởng và chất lượng tín dụng trong hệ thống ngân hàng. Việc đặt room tín dụng cũng nhằm giúp bên vay kiểm soát khoản vay vì bên vay cũng có hạn mức vay nhất định, tránh rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
3. Nới room tín dụng là gì?
Thông thường, Ngân hàng nhà nước sẽ áp room tín dụng cho từng NHTM để ngân hàng này tự quản lý, điều hành rủi ro trong hệ thống NHTM liên quan đến cấp tín dụng. Tránh tình trạng ngân hàng thương mại có vốn quá ít nhưng lại cho khách hàng vay quá nhiều.
Và khi hết room tín dụng, các ngân hàng thương mại không thể tiếp tục cho khách hàng vay. Lúc này, các ngân hàng thương mại có thể xin Ngân hàng nhà nước “nới” room tín dụng. Và quyết định sẽ phụ thuộc vào sự xem xét, thanh tra của Ngân hàng nhà nước.
4. Ngân hàng nhà nước sử dụng cơ chế nào để phân bổ room tín dụng?
Để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy phát triển kinh tế, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã xây dựng giải pháp kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo mục tiêu của ngành từ năm 2012 và đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng ngày càng cao, tăng trưởng tín dụng cả năm đối với từng tổ chức tín dụng.
Ngân hàng nhà nước định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14% tại Chỉ thị số 01/CT-Ngân hàng nhà nước ngày 13/1/2022, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến và tình hình thực tế. Ngân hàng nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng 14% dựa trên các yếu tố: Thực tế tăng trưởng tín dụng năm 2021 (tăng 13,61% so với 12,17% năm 2020); mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 6,5–6,5%; lạm phát khoảng 4% và dự toán ngân sách nhà nước theo Nghị quyết số 34/2021/QH15.
Căn cứ định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14%, có điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở diễn biến lạm phát, tình hình kinh tế trong nước và quốc tế, Ngân hàng nhà nước cho biết đã phân bổ tăng trưởng tín dụng năm 2022 cho từng Tổ chức tín dụng trên 2 cơ sở chính:
Thứ nhất, được xác định theo hoạt động của từng tổ chức tín dụng khi được đánh giá dựa trên các tiêu chí và cách chấm điểm chi tiết tại Thông tư 52/2018/TT-Ngân hàng nhà nước.
Thứ hai, cần tính đến một số yếu tố cụ thể hóa chính sách, triết lý điều hành của chính phủ và ngân hàng quốc doanh, trong đó có tiêu chuẩn hạ lãi suất cho vay hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, tiêu chí tín dụng tập trung vào bất động sản đầu tư, trái phiếu, tiêu chí Tổ chức tín dụng tham gia hỗ trợ xử lý ngân hàng yếu kém để làm cơ sở nâng hoặc hạ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với Tổ chức tín dụng trong quá trình điều chỉnh, giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng tổ chức tín dụng.
5. Có nên duy trì room tín dụng hay không?
5.1. Công cụ hành chính cần thiết để điều chỉnh thị trường:
Gần đây, có ý kiến cho rằng việc lập room tín dụng “bao cấp”, một công cụ hành chính, không còn phù hợp với bối cảnh thị trường hiện nay, đồng thời có ý kiến lo ngại tiêu chí thiếu rõ ràng, có thể gây ra hiện tượng “xin-cho” tiêu cực. Phân tích vấn đề này, Phó Thống đốc thường trực Đào Minh Tú cho biết, công cụ room tín dụng được áp dụng từ năm 2011 với nhiều mục tiêu.
Trên thực tế, nhiều nước, kể cả những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, vẫn phải kết hợp các công cụ hành chính để khắc phục các khiếm khuyết của thị trường.
“Không phải công cụ hành chính dở, hành chính hay thị trường mà quan trọng nhất là hiệu quả chung cuối cùng”, ông Đào Minh Tú nhấn mạnh nhất.
Lãnh đạo Ngân hàng nhà nước cho biết thêm room tín dụng không cứng nhắc và hoàn toàn minh bạch. Nội dung về room tín dụng được nêu rõ tại Chỉ thị số 01/CT-Ngân hàng nhà nước về tổ chức thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng năm 2022.
Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước Đào Minh Tú phân tích thêm: Nếu không có tác động của dịch COVID-19, hay cơ hội phục hồi kinh tế, nhu cầu vốn của doanh nghiệp, hộ gia đình sẽ tăng nhanh thì bài toán room tín dụng sẽ không thể giải quyết được. Cụ thể, nếu không có dịch bệnh, không gia hạn nợ, cơ cấu lại nợ cho doanh nghiệp thì lượng vốn sẽ đủ quay vòng và trả nợ. Nhưng do những nguyên nhân trên cộng với sự phục hồi của nền kinh tế nên lượng vốn bổ sung tăng mạnh.
Như vậy, con số 14% của chỉ báo là con số mang tính định hướng, không phải là con số cố định và có thể điều chỉnh cao hơn hoặc thấp hơn.
Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước áp dụng công cụ room tín dụng cùng với yêu cầu an toàn vốn. Ngân hàng nào chất lượng hơn, tín dụng lành mạnh hơn, tham gia nhiều hơn vào mục tiêu chung của hệ thống và chủ sở hữu? Chủ trương của Chính phủ đương nhiên sẽ là ưu tiên nới room tín dụng.
5.2. Sức ép cao nhưng vẫn giữ vững mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô:
Ông Phạm Chí Quang, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng nhà nước) phân tích thêm, để đánh giá về công cụ room tín dụng cần nhìn rộng từ góc độ kinh tế vĩ mô cả trong và ngoài nước.
Trong bối cảnh hiện nay, áp lực lạm phát của kinh tế thế giới là rất lớn, do nền kinh tế Việt Nam có độ mở cao, kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 190% GDP. Bên cạnh đó, giá nguyên vật liệu, nhất là giá dầu tăng cao tác động lớn đến lạm phát.
Ông Phạm Chí Quang dẫn chứng, các ngân hàng trung ương trên thế giới đang phải áp dụng hàng loạt biện pháp thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ. Riêng năm 2021, có 113 đợt tăng lãi suất, riêng 5 tháng đầu năm 2022, toàn cầu có 144 đợt tăng lãi suất.
Về lãi suất, ông Phạm Chí Quang cho biết thêm: Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) quyết định tăng lãi suất cơ bản lên 0,75% đã tác động lớn đến lãi suất và tỷ giá ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Tính đến nay, riêng tỷ giá USD đã tăng trên 9% so với cuối năm 2021. Do đồng USD tăng giá mạnh nên hầu hết các đồng tiền cơ bản trên thế giới, nhất là trong khu vực, đã mất giá rất nhiều. Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc mất giá 5,3%, đồng won của Hàn Quốc mất giá 4,7%, đồng yên Nhật thậm chí mất giá gần 16%. Đây đều là những đối tác thương mại và đầu tư lớn với Việt Nam.
Trong khi đó, Ngân hàng nhà nước đã hạ lãi suất 3 lần liên tiếp trong năm 2020, cố gắng ổn định mặt bằng lãi suất trong năm 2021 và 6 tháng đầu năm 2022.
Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước bám sát kinh nghiệm “dĩ bất biến”, với mục tiêu quan trọng nhất là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng đồng bộ, linh hoạt các công cụ lãi suất, thanh khoản, tín dụng, tỷ giá để kiểm soát an toàn, bảo đảm các tổ chức tín dụng trong khả năng kiểm soát và không ảnh hưởng đến thanh khoản của thị trường.
Trong bối cảnh lãi suất nước ngoài liên tục tăng nhưng mặt bằng lãi suất cho vay từ đầu năm đến nay của Việt Nam mới tăng nhẹ 0,09%, cho thấy nỗ lực rất lớn của Ngân hàng nhà nước, hệ thống các tổ chức tín dụng đã đồng hành cùng nền kinh tế, duy trì mặt bằng lãi suất cho vay hợp lý để không tạo gánh nặng cho doanh nghiệp và người dân, khắc phục ảnh hưởng của khủng hoảng COVID-19.
“Nhìn vào tình hình chung, có thể thấy việc duy trì mặt bằng lãi suất ổn định và CPI ở mức tăng vừa phải của Việt Nam là nỗ lực lớn trong bối cảnh lạm phát toàn cầu bùng nổ”, ông Phạm Chí Quang nói.
Nhìn lại lịch sử, ông Phạm Chí Quang cho biết: Trước khi áp dụng room tín dụng, từ năm 2011 trở về trước, có những năm tín dụng tăng rất nóng, lên tới 53,8%, gấp rưỡi bảng cân đối sau một năm. Điều này vượt xa khả năng quản lý và cân đối vốn của các tổ chức tín dụng, dẫn đến hệ lụy lớn là mất khả năng chi trả.
Rút bài học đó, Ngân hàng nhà nước phải áp dụng hệ thống kiểm soát “đi bằng hai chân”. Trong đó, mũi nhọn thứ nhất là quản trị hệ thống ngân hàng thương mại theo chuẩn mực quốc tế. Chặng thứ hai là kiểm soát tăng trưởng và chất lượng tín dụng từ sớm, từ xa.
Dựa vào những phân tích đánh giá ở trên có thể thấy việc duy trì room tín dụng vẫn là điều rất cần thiết.