Quỹ đầu tư là nguồn cung cấp vốn của nhiều nhà đầu tư được sử dụng để mua chung chứng khoán trong khi mỗi nhà đầu tư giữ quyền sở hữu và kiểm soát cổ phiếu của mình. Một quỹ đầu tư cung cấp nhiều lựa chọn cơ hội đầu tư hơn, chuyên môn quản lý tốt hơn và phí đầu tư thấp hơn mức mà các nhà đầu tư có thể có được. Các loại quỹ đầu tư bao gồm quỹ tương hỗ , quỹ trao đổi, quỹ thị trường tiền tệ và quỹ phòng hộ. Bên cạnh đó, còn có quỹ đầu tư chung do nhiều nhà đầu tư cùng tập hợp tạo thành.
Mục lục bài viết
1. Quỹ đầu tư chung là gì?
– Một quỹ đầu tư là một cách đầu tư tiền cùng với các nhà đầu tư khác để được hưởng lợi từ những lợi thế vốn có của làm việc như là một phần của một nhóm như giảm rủi ro của khoản đầu tư bởi một tỷ lệ đáng kể. Những lợi thế này bao gồm khả năng: thuê các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp, những người có thể mang lại lợi nhuận tốt hơn và quản lý rủi ro đầy đủ hơn; hưởng lợi từ quy mô kinh tế , tức là chi phí giao dịch thấp hơn; tăng đa dạng hóa tài sản để giảm một số rủi ro phi hệ thống.
– Các quỹ đầu tư nói chung và quỹ đầu tư chung nói riêng đều mang đến cho mọi người cơ hội áp dụng các chiến lược để đầu tư vào nhiều thị trường tài chính và tài sản bất cứ khi nào họ chọn. Họ cung cấp các điều kiện rất linh hoạt để mua lại hoặc chuyển nhượng tài sản, ngoài ra còn có lợi về thuế ở nhiều khu vực pháp lý.
– Nguồn gốc xuất xứ của quỹ đầu tư: Với quỹ đầu tư, các nhà đầu tư cá nhân không đưa ra quyết định về việc nên đầu tư tài sản của quỹ như thế nào. Họ chỉ đơn giản là chọn một quỹ dựa trên mục tiêu, rủi ro, phí và các yếu tố khác. Người quản lý quỹ giám sát quỹ và quyết định quỹ nên nắm giữ chứng khoán nào, số lượng bao nhiêu và khi nào chứng khoán nên được mua và bán. Quỹ đầu tư có thể hoạt động trên phạm vi rộng, chẳng hạn như quỹ chỉ số theo dõi S&P 500 , hoặc có thể tập trung chặt chẽ, chẳng hạn như quỹ ETF chỉ đầu tư vào các cổ phiếu công nghệ nhỏ.
2. Phân tích ưu điểm và nhược điểm:
* Ưu điểm của quỹ đầu tư chung:
– Đầu tiên các nhà đầu tư phải mua lại các đơn vị trong quỹ mà họ chọn. Giá mỗi đơn vị là “giá trị tài sản ròng” của quỹ. Bằng cách chia tổng vốn chủ sở hữu của quỹ cho số lượng nhà đầu tư. Bởi vì các nhà đầu tư có thể bán (“mua lại”) các đơn vị hoặc cổ phiếu mà họ sở hữu bất cứ khi nào họ muốn, giá trị vốn chủ sở hữu của quỹ có thể tăng hoặc giảm. Các công ty quản lý quản lý các khoản đầu tư của quỹ. Họ hướng tới việc tìm kiếm các cơ hội và sản phẩm tài chính tốt nhất cho tiền của nhà đầu tư và có thể cung cấp cho khách hàng lựa chọn các quỹ với rủi ro và tỷ lệ hoàn vốn khác nhau.
– Khả năng sinh lời của quỹ phụ thuộc vào sản lượng của tài sản mà họ đầu tư vào.
– Một yếu tố quan trọng là thời hạn đầu tư. Mỗi quỹ có các điều kiện về bảo lãnh, thời hạn đầu tư và thị trường mà quỹ đầu tư. Các nhà đầu tư nên đầu tư trong khả năng của họ. Các yếu tố quan trọng khác là phí quản lý và mua lại của quỹ hoặc thời gian và tỷ lệ hoàn vốn.
* Hạn chế của quỹ đầu tư chung:
– Phần lớn tài sản quỹ đầu tư thuộc về quỹ tương hỗ dạng mở . Các quỹ này phát hành cổ phiếu mới khi các nhà đầu tư thêm tiền vào nhóm và rút cổ phiếu khi các nhà đầu tư mua lại. Các khoản tiền này thường chỉ được định giá một lần vào cuối ngày giao dịch.
– Quỹ đóng giao dịch tương tự như cổ phiếu hơn là quỹ mở. Quỹ đóng là quỹ đầu tư được quản lý phát hành một số lượng cổ phiếu cố định và giao dịch trên sàn giao dịch. Trong khi giá trị tài sản ròng ( NAV ) của quỹ được tính toán, quỹ giao dịch dựa trên cung và cầu của nhà đầu tư. Do đó, quỹ đóng có thể giao dịch ở mức phí bảo hiểm hoặc chiết khấu đối với NAV của quỹ đó.
– Bên cạnh đó còn có sự tồn tại của các quỹ giao dịch trao đổi (ETF): theo đó, các quỹ giao dịch trao đổi ( ETF ) nổi lên như một sự thay thế cho các quỹ tương hỗ dành cho các nhà giao dịch muốn linh hoạt hơn với quỹ đầu tư của họ. Tương tự như quỹ đóng, ETF giao dịch trên các sàn giao dịch và được định giá và có sẵn để giao dịch trong suốt ngày làm việc. Nhiều quỹ tương hỗ, chẳng hạn như Quỹ chỉ số Vanguard 500, có đối tác ETF. Vanguard S&P 500 ETF về cơ bản là cùng một quỹ, nhưng được mua và bán trong ngày. ETF thường có lợi thế bổ sung là tỷ lệ chi phí thấp hơn một chút so với quỹ tương hỗ của họ.