Nếu đã là người dân Việt Nam thì đêm 30 Tết không thể nào không xem Táo Quân, vậy chúng ta đã biết đến nguồn gốc của Nam Tào Bắc Đẩu hay không? cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé
Mục lục bài viết
1. Quan Nam Tào Bắc Đẩu là ai?
Trong hệ thống tâm linh Tứ Phủ, Nam Tào Bắc Đẩu là hai vị quan được thờ bên cạnh ngai cao của Đức Vua Cha Ngọc Hoàng Đế. Dù được thờ trên ban công của hầu hết các ngôi chùa cùng vua nhưng không phải ai cũng biết lai lịch của hai vị quan này.
2. Sự tích Quan Nam Tào Bắc Đẩu:
Theo dân gian, Quan Nam Tào Bắc Đẩu vốn là hai người phàm, họ là anh em sinh đôi. Người mẹ già của họ mới bắt đầu mang thai và ở tháng thứ 69 đã sinh ra hai cục máu đông không đầu và tứ chi. Cô định vứt nó đi nhưng rồi âu yếm cất vào góc. Một cách tự nhiên, 100 ngày sau, hai cục thịt hóa ra là hai người đàn ông mạnh mẽ, thông minh, phi thường, mọi việc xảy ra ở bất cứ đâu đều có thể nhớ được. Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy vậy bèn chọn hai người làm thiên can, ghi nhớ sự sinh diệt của loài người. Trong đó, Nam Tào ghi sổ sinh đứng bên trái (phía Nam), Bắc Đẩu ghi sổ tử đứng bên phải (phía Bắc) bên cạnh Ngọc Hoàng. Họ ghi lại vận mệnh của mỗi người từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, xác định số giàu nghèo, thiện ác, kiếp nào sẽ đầu thai sau khi chết, họ còn ghi cả số đầu thai của các loài động vật. Vì quá nhiều chuyện, Bắc Đẩu đã có lúc dùng dao thần trừng trị bừa bãi những người lương thiện, khiến tính mạng người dân như rơm rạ, con cái cũng sống được vài năm rồi chết.
Ở Liêm Sơn, Thanh Liêm, Hà Nam ngày nay, có một cậu bé tên là Đỗ Kình, sinh ra đã không có mắt, hơi thở ngắn, nhưng được bà mụ ban cho sức khỏe phi thường và đôi mắt sáng long lanh, nhìn được xa, đi mây về gió. Mệt mỏi với cách làm việc vô trách nhiệm của Bắc Đẩu, Đỗ Kình thả mây bay về Thiên Đình. Anh thấy Bắc Đẩu suốt ngày cầm dao, chỉ khi ngủ ôm vợ vào lòng, anh mới để dao ở đầu giường. Đỗ Kình lợi dụng vợ Bắc Đẩu đi tắm, bế nàng ném xuống ao. Bắc Đẩu vội bỏ dao lao vào cứu vợ. Nhanh như cắt, Đỗ Kình cầm dao phóng lên trần nhà. Bắc Đẩu đuổi theo, dùng hết sức lực nhưng Đỗ Kình chạy thoát. Kể từ đó, người phàm không bị Bắc Đẩu giết chết, vì vậy họ đã sống hàng trăm năm. Thiên Đế nhiều lần cầu dao dưới mưa nhưng Đỗ Kình trốn thoát, con dao được cất kỹ. Cho đến một ngày, quanh vùng xuất hiện một con rắn cạp nia buộc người dân phải ăn. Đỗ Kình nghe tin, liền mang dao trị rắn. Khi đến nơi, anh gọi con rắn nhưng không thấy gì nên ngồi trên gốc cây mục. Lập tức bị đánh trả, ném dao khiến Đỗ Kình ngã và giật được con dao thần. Đỗ Kình đuổi được rắn nhưng Bắc Đẩu và Thiên Lôi nhân cớ đó phóng tia sét thiêu sống Đỗ Kình. Bắc Đẩu phải đổi ngàn con bê tươi để chuộc con dao.
Ngọc Hoàng biết chuyện của Đỗ Kình bèn sai các quan đến nghe chuyện. Hắn yêu Đỗ Kính, trách Bắc Đẩu, bắt loài người từ nay phải sống đến trăm tuổi. Nhưng Bắc Đẩu lại sợ người sống quá thọ và sinh nhiều thủ đoạn như Đỗ Kình nên ngấm ngầm hạ thấp tuổi thọ của ông, chỉ cho ông sống đến 70-80 tuổi, chỉ may mắn cho một số ít người sống đến trăm tuổi để dâng Ngọc Hoàng.
3. Đền Thờ Quan Nam Tào Bắc Đẩu ở đâu?
Ngày nay, tại Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc, tỉnh Hải Dương là nơi linh thiêng, lưu giữ nhiều giá trị văn hóa tinh thần của Trần Triều. Trong đó có hai ngôi đền Quan Nam Tào Bắc Đẩu nổi tiếng ở đây thờ hai vị quan thân cận của Ngọc Hoàng. Cả hai ngôi chùa đều thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nằm trên hai ngọn núi đối xứng nhau qua đền Kiếp Bạc, đền Quan Nam Tào Bắc Đẩu được coi là có từ rất lâu đời.
Đền Quan Nam Tào tọa lạc trên núi Dược Sơn và đền Quan Bắc Đẩu tọa lạc trên núi Vạn Kiếp. Đứng trên hai đỉnh núi này, bạn có thể quan sát cả một làng quê rộng lớn và ngôi đền Kiếp Bạc linh thiêng. Nằm trong khuôn viên của khu di tích Kiếp Bạc, đền Nam Tào và đền Bắc Đẩu nằm ở hai bên tả và hữu đền thờ Trần Hưng Đạo Đại Vương do quan niệm hai vị quan này cùng phụng sự Đức Thánh Trần. Đây cũng là nơi lưu giữ dấu tích tiền đồn Trạm Điền của Trần Hưng Đạo trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông.
Theo lời kể của các bô lão, trước đây cả hai ngôi chùa đều được xây dựng khang trang, bề thế nhưng đã nhiều lần bị tàn phá khi giặc Pháp sang xâm lược nước ta. Rồi khi đất nước ổn định, cả hai được xây dựng trên cùng mảnh đất cũ vào năm 1979, thiết kế có chút thay đổi so với trước.
Trải qua bao thăng trầm và chiến tranh, hai ngôi chùa đã nhiều lần được trùng tu. Đặc biệt vào năm 2005, cả hai đã được tiến hành khai quật khảo cổ học. Tại đây, người dân phát hiện nhiều cổ vật có niên đại thời Trần, Lê. Đây là cơ sở để UBND tỉnh tôn tạo khu di tích Nam Tào – Bắc Đẩu vào năm 2007 với quy mô hoành tráng như hiện nay.
4. Lễ hội Quan Nam Tào Bắc Đẩu:
Hiện nay, hoạt động lễ hội đền Nam Tào Bắc Đẩu gắn với hoạt động lễ hội đền Kiếp Bạc. Hàng năm vào ngày 20 tháng 8 và ngày 28 tháng 9 (âm lịch), nhân dân tổ chức lễ rước từ đền Giáp về đền Kiếp Bạc để tế lễ, sau đó rước về đền Nam Tào, Bắc Đẩu. Ngoài ra, mỗi chùa còn có một số nghi lễ riêng hướng về Quan Nam Táo, Quan Bắc Đẩu được tổ chức tại mỗi chùa.
Nhân lễ hội trên, nhân dân các làng Dược Sơn, Vạn Yên, Bắc Đẩu tổ chức lễ dâng hương hai vị Quan và từ di tích Nam Tào, Bắc Đẩu tổ chức rước sắc phong về đền Kiếp Bạc để dâng Chúa Thánh Thần Quan Nam Tào, Quan Bắc Đẩu. Nhưng vẫn tồn tại trong tín ngưỡng Tam Phủ Thánh Mẫu được thờ hai bên Đức Vua Cha Ngọc Hoàng, vị Thần được nhân dân tôn thờ và tưởng nhớ.