Hội đồng quan lớn trong Tứ Phủ được chia thành hai hàng vị, một là Ngũ Vị Tôn Quan gồm các vị từ Quan Đệ Nhất đến Quan Đệ Ngũ, hai là Lục Phủ Tôn Quan gồm các vị từ Quan Đệ Lục đến Quan Đệ Thập. Bài viết này sẽ cung cấp đến bạn đọc một số thông tin về Quan Đệ Lục – vị quan lớn đứng đầu Lục Phủ Tôn Quan linh thiêng quyền phép.
Mục lục bài viết
1. Quan Đệ Lục là ai?
Quan Đệ Lục là vị thứ sáu trong Thập đại quan có công phò tá vua Cha Bát Hải Động Đình đánh giặc ngoại xâm. Những tư liệu, di vật cổ về ông không còn do chiến tranh tàn phá. Dưới góc độ Hoàng Thiên Tiên Thánh Giáo hội, Quan Lớn Vệ Lục là Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Ông là một thủ lĩnh đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của nhà Đường và đánh đuổi quân xâm lược từ phía bắc.
Tuy nhiên, tác giả cuốn “Tín ngưỡng Tam Tứ phủ và Thờ Thánh ở Việt Nam”, người đã nghiên cứu về Tam Tứ phủ của Việt Nam trong một thời gian dài, cho rằng điều này là không đúng và không phù hợp với nguyên tắc và tín ngưỡng của Tam Tứ phủ. Vì theo nguyên tắc này, “các vị vua không thuộc hệ thống thần linh tứ phủ”. Nói một cách đơn giản: đã từng là vua, luôn ở ngôi cao, nên đương nhiên không thể xếp vào vị trí một trong bốn vị quan làm Thượng Quan Tứ Phủ. Đặt vua làm quan là sỉ nhục vua và hạ thấp vua. Vì vua là “con trời”, “thiên tử” nên được coi trọng hơn cả thần thánh, thậm chí có quyền sắc phong cho thần linh. Đồng thời, Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng là vua nước Việt nên không thể nói Quan Đế Lục là Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng.
2. Sự tích Quan Đệ Lục:
Theo thần phả sắc phong, Quan Lớn Đệ Lục là con trai thứ sáu của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Đại Quân là người có lòng nhân từ, thương người nên được vua chia hết mực yêu quý trao quyền thông tri địa phủ, là một trong Tứ Phủ (Thiên – Địa – Nhạc – Thoải). Thời Hùng Vương, ông đã thực hiện mệnh lệnh của cha mình là hạ phàm hiển thánh để giúp vua Hùng cùng các tướng lĩnh cầm quân đánh đuổi quân xâm lược. Lúc bấy giờ ông giáng vào đất Long Khê, Tứ Kỳ, Hải Dương.
Tương Truyền Thời Trần năm Năm Nhâm Thân có giặc ngoại xâm, vua sai tướng Trần Quang Khải trấn giữ cửa ải thượng khu Trảng Đào Động, nay là huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình. Giặc hung hãn làm quân ta suy yếu, để bảo toàn quân ta, tướng quân Trần Quang Khải đã rút quân về châu Hồng Châu, phủ Hải Dương (trước là Tứ Kỳ Hạ) bên sông Cắt, Thái Bình. Trên đường về, quân Tứ Kỳ thấy một con rắn lớn bơi bên cạnh quân, khi đến địa phận Long Khê (Tứ Kỳ Hạ), tổng Tất Lại thì tự nhiên phát ra một vầng hào quang ngũ sắc bay về núi Đồng Thần gần đó rồi tự nhiên biến mất. Trên diện tích khoảng chục hecta của núi Đồng Thần, cây cối phát triển tươi tốt, bạt ngàn. Thấy địa thế thuận lợi, tướng quân Trần Quang Khải cho quân sĩ nghỉ ngơi, đóng quân tại đó. Chiều mùng chín tháng giêng, triều đình cùng dân làng tại bản lập đàn linh sơn tú khí về giúp sức sức. Thổ thần làng Lộng Khê dường như đã hiện thân giúp nhà vua đánh giặc, đi đầu trấn thủ tám thành cảng phía Tây. Đất nước yên bình, nhờ có thần linh phù trợ, vua ban sắc phong cho ông là “Đệ Lục Tôn Quan Thượng Thượng đẳng tối linh thần” ban cho nhân dân trong vùng ngày đêm thờ phụng.
3. Đền Quan Lớn Đệ Lục – miếu Giáp Lục:
Quan Lớn Đệ Lục được thờ tại miếu Giáp Lục, thuộc thôn Đào Động, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, phủ Thái Bình. Tuy nhiên, ngôi miếu đã bị phá hủy trong thời gian thực dân Pháp xâm lược, vì vậy nó không còn tồn tại.
Trước đây nó nằm đối diện bên đường với đền Quan Lớn Đệ Nhị hiện nay. Miếu nằm gần chợ và cách Đền Quan Lớn Đệ Nhị khoảng 500m. Khi đó, miếu Giáp Lục nằm giữa chùa Bèo và chùa Đồng. Mặt khác, ngày nay, những ngôi nhà đã được xây dựng phá hủy nền móng của khu vực đền thờ cũ. Hy vọng một ngày nào đó đền Giáp Lục sẽ được trùng tu để nhân dân đến chiêm bái vị quan lớn.
4. Văn khấn Quan Đệ Lục:
Nam mô a di đà Phật !
Nam mô a di đà Phật !
Nam mô a di đà Phật !
Hương tử chúng con thành tâm kính lạy đức Hiệu Thiên Chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền cung cao Thượng đế.
Kính lạy
Đức Cửu Trùng Thánh Vân lục cung công chúa
Đức Thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh Mã Hoàng công chúa, sắc phong Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương, gia phong Tiên Hương Thánh mẫu
Đức đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều Mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương
Đức đệ tam Thủy phủ, Lân nữ Công Chúa
Đức đệ tứ khâm sai Thánh Mẫu, tứ vị chầu bà, năm tòa quan lớn, mười dinh Các quan.
Con xin cung thỉnh Đệ Lục Tôn Quan Mười hai Tiên Cô, mười hai thánh Cậu, Ngũ hồ Đại tướng, Thanh Hoàng Bạch Xà Đại tướng.
Hôm nay là….
Tín chủ con là ………..
Ngụ tại:………………..
Cùng toàn thể gia đình đến điện (phủ, đền) chắp tay kính lễ khấu đầu vọng bái.
Lòng con thành khẩn, dạ con thiết tha kính dâng lễ vật con cúi xin các ngài xét thương cứu độ cho gia đình con tiêu trừ tai nạn điều lành thường tới, cầu tài được tài, cầu lộc được lộc, cầu bình an được bình an.
Nam mô a di đà Phật !
Nam mô a di đà Phật !
Nam mô a di đà Phật !
5. Lục Phủ Tôn Ông:
5.1. Lục Phủ Tôn Ông là ai?
Lục Phủ Tôn Ông hay Lục Phủ Tôn Quân, Thống Phủ Tôn Ông Hội đồng là những vị quan lớn, xếp sau Ngũ Vị Tôn Quan. Trong khi các Ngũ Vị Tôn Quan là những vị trực tiếp cai quản các lãnh thổ của Thiên Địa Thủy Nhạc thì các quan của Lục Phủ Tôn Ông có trách nhiệm hỗ trợ tứ phủ của vua cha chứ không trực tiếp cai quản.
Các Quan lớn trong Lục Phủ Tôn Ông thường không hay ra ngự đồng.
5.2. Lục Phủ Tôn Ông là ai?
Lục Phủ Tôn Ông bao gồm các quan lớn sau: Quan Lớn Đệ Lục, Quan Điều Thất, Quan Đệ Bát, Quan Triều Tường và Quan Bắc Quốc.
Quan Lớn Đệ Lục:
Quan Lớn Đệ Lục là vị quan thứ sáu trong thập đại quan, có công chống giặc ngoại xâm ở lãnh thổ của vua Cha Bát Hải Động Đình và đảm trách công việc cho vua Địa Phủ. Những tư liệu, di vật cổ về Quan Lớn Đệ Lục không còn do chiến tranh tàn phá.
Quan Lớn Điều Thất:
Quan Lớn Điều Thất còn có tên là Quan Điều Thất Đào Tiên, ông là thủ phủ của chùa Bình Nguyên, con trai thứ bảy của Vua Cha Bát Hải. Ông là một vị quan có công việc là giữ sổ sách, giữ vật báu trong thủy cung, coi sóc nội điện của vua cha. Xưa vua cha cử Bát Hải Động Đình Vĩnh Công Đại Vương đi giúp Hùng Vương đánh giặc, khi sứ mệnh xong Ngài liên hóa ngay.
Quan Điều Thất không giáng trần nhưng thường xuất hiện giúp đỡ nhân gian, nhân dân lập đền thờ, các triều đại có sắc phong, Đền Ngài là đền Công Đồng. Ngài ngự đồng mặc áo đai mạng đỏ, tấu hương khai quang và phất cờ.
Quan Lớn Đệ Bát:
Quan Lớn Đệ Bát Đồng Bằng Sông Diêm, ông là con trai của Vua Cha Bát Hải Động Đình, người thường cưỡi lốt tam đầu cửu vĩ và dạo chơi non bể, quyền phép anh linh cai quản muôn vạn thủy binh, triệu hồi mưa gió, ban phước cho các sinh vật sống.
Quan Lớn Triệu Tường:
Ông là Nguyễn Hoàng hay Chúa Tiên Nguyễn Thái Tổ, vị chúa đầu tiên của nhà Nguyễn. Cha là Nguyễn Kim, đại thần nhà Lê sau này, em rể là Trịnh Kiếm. Sau đó, Trịnh Kiểm ăn cháo đá bát, giở trò phản bội rồi giết Nguyễn Kim, Nguyễn Uông. Nguyễn Hoàng tiến quân về phía Nam để bảo vệ Thuận Hóa. Về sau, ông nhiều lần cử binh ra bắc đánh giặc, nhưng họ Trịnh chẳng những bạc tình mà còn gian xảo. Nguyễn Hoàng dẫn binh vào Thuận Hóa, từ đó nam bắc phân chia, chúa Nguyễn chúa Trịnh mỗi người một vương.
Dưới thời trị vì của ông, quốc gia được cường thịnh và thịnh vượng, lãnh thổ mở rộng về phía nam và thành lập vùng đất phía nam của Việt Nam hiện nay. Đại quan Triệu Tường ngự đồng mặc áo đai mạng màu vàng, tấu hương, khai quang rồi múa cờ.
Quan Lớn Bắc Quốc:
Ông được cho là người Trung Quốc, họ Tống, sinh vào cuối triều đại nhà Minh và nhà Thanh. Khi người Mãn ở phía bắc chiếm đất Trung Nguyên và đánh bại Đại Minh để thành lập triều đại Mãn Thanh, họ đã áp bức người Hán và buộc họ phải tuân theo phong tục của mình. Nhiều người Hán không chịu nổi sự áp đặt dã man, đã xuống thuyền chạy sang các nước khác. Hầu hết người gốc Hoa định cư ở Hội An và Sài Gòn, nhưng một số chạy xuống từ Trung Quốc đến biên giới Lào Cai.
Gia đình họ Tống định cư ở Lào Cai, họ giúp người dân mở rộng kinh doanh và dạy người dân cách trồng trọt. Khi thác ông thường hiển linh phù hộ nhân dân an cư lập nghiệp. Ông ngự đồng mặc áo Trường Bào Trung Hoa và buộc tóc đời Nhà Thanh. Ông múa quạt, đọc thơ uống trà và lại nói tiếng Quảng Đông. Nhiều nơi khác xếp ông thuộc Quan Hoàng thứ ba, hoặc Ông Hoàng Bát Quốc đứng hàng thứ tám trong Thập Vị quan Hoàng.