Thuế là công cụ góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô, góp phần thực hiện chức năng kiểm kê, kiểm soát, quản lý hướng dẫn và khuyến khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với tất cả các thành phần kinh tế. Phương thức đánh thuế là gì? Phân loại phương thức đánh thuế?
Mục lục bài viết
1. Phương thức đánh thuế là gì?
Khái quát chung về thuế:
Cho đến nay, các văn bản pháp luật tại Việt Nam vẫn chưa có một khái niệm nào trên thế giới thống nhất về thuế. Đứng ở các góc độ khác nhau của các nhà kinh tế khác nhau thì sẽ lại có một khái niệm khác nhau về thuế.
Một trong những khái niệm phổ biến về thuế đó là: Thuế là một khoản thu bắt buộc, không bồi hoàn trực tiếp của Nhà nước đối với các tổ chức và các cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước vì lợi ích chung.
Ngoài ra, ta còn có thể hiểu thuế là một khoản phí tài chính bắt buộc hoặc một số loại thuế khác áp dụng cho người nộp thuế (một cá nhân hoặc pháp nhân) phải trả cho một tổ chức chính phủ để tài trợ cho các khoản chi tiêu công khác nhau.
Các khoản thu thuế theo quy định sẽ được tập trung vào Ngân sách nhà nước. Đây là những khoản thu nhập của nhà nước được hình thành trong quá trình nhà nước tham gia phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Thuế là khoản tiền và cũng là tiền đề cần thiết để nhằm mục đích duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Thuế sẽ dựa vào thực trạng của nền kinh tế. Bên cạnh đó thì thuế được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không trực tiếp là chủ yếu.
Khái niệm phương thức đánh thuế:
Khi xã hội loài người được hình thành thì sẽ cần có một tổ chức lãnh đạo được lập ra và hoạt động nhằm mục đích chính là để đem đến lợi ích cho tất cả mọi người. Chính vì điều này mà đã đặt ra yêu cầu chung đó là phải có một quỹ chung để thực hiện và chi cho các công việc cần thiết thuế được hình thành. Hiện nay, thuế đã trở thành một công cụ không thể thiếu dù ở bất cứ xã hội nào. Nhà nước đặt ra chế độ thuế khóa do dân cư đóng góp để có tiền chi tiêu cho sự tồn tại và hoạt động của mình.
Phương thức đánh thuế thể hiện cách nhà nước điều tiết thu nhập của các tổ chức hay các cá nhân trong xã hội – điều tiết một cách trực tiếp hay điều tiết gián tiếp. Theo cách phân loại này, thuế được chia thành thuế trực thu và thuế gián thu.
2. Phân loại phương thức đánh thuế:
Theo phương pháp đánh thuế, Nhà nước đánh thuế theo hai cách là trực tiếp đánh vào thu nhập hoặc gián tiếp qua dịch vụ, hàng hóa nên ta có thể chia thành hai loại thuế là thuế trực thu và thuế gián thu.
2.1. Thuế trực thu:
Thuế trực thu là loại thuế do người chịu thuế trực tiếp nộp thuế cho nhà nước. Thuế trực thu trực tiếp điều tiết vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế, ví dụ như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân.
Do thuế trực thu trực tiếp điều tiết vào thu nhập, tài sản của tổ chức và cá nhân, có xem xét đến hoàn cảnh, điều kiện và khả năng đóng góp của người nộp thuế nên nó rất có tác dụng trong việc điều hoà thu nhập, góp phần giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa các tầng lớp dân cư.
Đây cũng là ưu điểm nổi bật của thuế trực thu so với thuế gián thu. Tuy nhiên, thuế trực thu lại có hạn chế lớn là dễ gây phản ứng từ phía người nộp thuế hoặc dễ xảy ra tình trạng trốn, lậu thuế nếu qui định mức thuế suất cao.
Không những thế thì việc theo dõi, tính toán và thu thuế phức tạp, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân với diện thu thuế rộng và phân tán. Do đó, trong trường hợp khi không có biện pháp quản lí thu thuế hiệu quả thì dễ dẫn đến hạn chế tác dụng của loại thuế này trong việc tập trung số thu đầy đủ, kịp thời về cho ngân sách nhà nước.
Như vậy, về cơ bản thì thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế, theo đó các chủ thể là người nộp thuế sẽ đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu theo quy định pháp luật bao gồm các loại thuế như thuế thu nhập (thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp,…), thuế đánh vào của cải (thuế nhà, đất), thuế đánh vào đối tượng thường trú. Thuế trực thu đối với mỗi cá nhân sẽ xét trên khả năng nộp thuế của chủ thể chịu thuế tức là các chủ thể là người có thu nhập cao hơn phải nộp thuế nhiều hơn người có thu nhập ít. Cùng với các ưu điểm về bảo đảm sự công bằng trong việc điều tiết thu nhập của người nộp thuế thì thuế trực thu cũng có nhược điểm đó là thuế trực thu không có sự chuyển dịch về thuế và việc thực hiện nghĩa vụ nộp tiền.
2.2. Thuế gián thu:
Thuế gián thu được hiểu là loại thuế do các nhà sản xuất, thương nhân hoặc người cung cấp dịch vụ nộp cho Nhà nước thông qua việc cộng số thuế này vào giá bán cho người tiêu dùng chịu. Ví dụ như: thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt…
Theo định pháp luật thuế, khác với thuế trực thu, người nộp thuế chính là người phải chịu thuế, với thuế gián thu, người nộp thuế và người chịu thuế (người trả thuế) không đồng nhất.
Do điều tiết một cách gián tiếp vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ thông qua cơ chế giá nên với thuế gián thu, người chịu thuế (người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ) ít có cảm giác bị nhà nước đánh thuế.
Do đó, loại thuế gián thu cũng ít gây ra những phản ứng từ phía người chịu thuế mỗi khi chính phủ có chủ trương tăng thuế. Ưu điểm nổi bật của thuế gián thu là nó có khả năng đáp ứng nguồn thu kịp thời, ổn định cho ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, trên thực tế thì thuế gián thu cũng có những hạn chế nhất định, đó là: vì thuế gián thu được tính trên giá cả hàng hoá, dịch vụ, không tính tới điều kiện, hoàn cảnh của đối tượng chịu thuế, do vậy nên thuế gián thu không đảm bảo được sự công bằng xã hội, thậm chí còn mang tính luỹ thoái.
Hay hiểu như sau bất kể người tiêu dùng là người giàu hay người nghèo, thu nhập cao hay thấp, nếu cùng tiêu dùng một lượng hàng hoá, dịch vụ như nhau thì cùng phải chịu một mức điều tiết thuế như nhau.
Số thuế gián thu nếu so với thu nhập của người giàu và người nghèo thì rõ ràng chúng mang tính luỹ thoái, thể hiện ở chỗ tỷ lệ giữa tiêu dùng so với thu nhập của người nghèo cao hơn tỷ lệ này của người giàu, và đương nhiên tỷ lệ giữa thuế gián thu so với tổng thu nhập của người nghèo lớn hơn người giàu.
Như vậy, ta nhận thấy rằng, thuế gián thu được hiểu là thuế đánh gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ. Cũng vì thế mà các chủ thể là người nộp thuế với người chịu thuế là hai chủ thể khác nhau trong đó người cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ là người nộp thuế còn người tiêu dùng là chủ thể chịu thuế. Thuế gián thu không mang tính lũy tiến giống thuế trực thu mà mang tính lũy thoái. Hay hiểu cơ bản là thuế gián thu không đánh vào khả năng thu nhập của người chịu thuế. Người có thu nhập cao hay thấp đều phải chịu thuế như nhau cho cùng một mặt hàng hay một dịch vụ. Thuế gián thu có ưu điểm là hạn chế sự phản ứng thuế từ người chịu thuế nhưng lại có hạn chế đó là khồn bình đẳng về điều tiết thu nhập. Thuế gián thu có thể kể đến là thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,…
Sự phân biệt giữa thuế trực thu và thuế gián thu chỉ rõ ràng ở góc độ pháp lí, tức là theo quy định của pháp luật thì các chủ thể là người nộp thuế có là người chịu thuế không hay người nộp thuế là người phải có trách nhiệm kê khai, nộp thuế cho một người khác.
Dưới góc độ kinh tế, gánh nặng thuế thực sự do ai chịu không phụ thuộc vào đó là thuế trực thu hay thuế gián thu mà phụ thuộc vào độ co giãn của của cung cầu hàng hóa, dịch vụ.
Thuế được hiểu chung là một một khoản nộp bắt buộc vào ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên cũng có rất nhiều loại thuế khác nhau dựa theo từng đặc điểm riêng cũng như đối tượng khác nhau của mỗi loại thuế. Việc các cá nhân hay tổ chức nộp thuế đóng góp những vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước và góp phần bảo đảm các hoạt động của các cơ quan Nhà nước.