Hiện nay trên thị trường trái phiếu chúng ta hiểu đây là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành buộc phải trả cho người sở hữu trái phiếu với một khoản tiền cụ thể. Theo đó người mua trái phiếu sẽ căn cứ vào phương pháp lãi suất thực để tính khoản chiết khấu trái phiếu.
Mục lục bài viết
1. Phương pháp lãi suất thực là gì?
Phương pháp lãi suất thực trong tiếng Anh là Effective Interest Method.
Phương pháp lãi suất thực là phương pháp được người mua trái phiếu sử dụng để tính khoản chiết khấu trái phiếu khi số dư được chuyển vào thu nhập lãi hoặc để khấu hao phí bảo hiểm trái phiếu vào chi phí lãi vay. Lãi suất thực sử dụng giá trị sổ sách để tính thu nhập lãi. Chênh lệch giữa thu nhập lãi và thanh toán lãi của trái phiếu là số tiền bồi thường hoặc khấu hao mỗi năm.
Lãi suất thực tế được tính theo công thức :
(1 + r)(1 + i) = (1 + R)
Trong đó:
r là lãi suất thực tế,
i là tỷ lệ lạm phát
R là lãi suất danh nghĩa.
Theo đó ta thấy lãi suất thực tế được tính cụ thể là dựa trên xấp xỉ bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát. Có thể xem đây là lãi suất mà nhà đầu tư hy vọng nhận được sau khi trừ đi lạm phát. Đây không phải là số đơn thuần, vì các nhà đầu tư khác nhau có kỳ vọng về tỷ lệ lạm phát khác nhau. Trường hợp khi mà một nhà đầu tư nhận được 5% lãi trong năm tới và dự đoán rằng lạm phát là 2% thì ông ta hy vọng nhận được lãi thực là 3%.
2. Đặc điểm và khái niệm liên quan tới phương pháp lãi suất:
Phương pháp lãi suất thực phát huy tác dụng khi trái phiếu được mua với giá chiết khấu hoặc phí bảo hiểm. Trái phiếu thường được phát hành theo mệnh giá 1.000 đô la và được bán theo bội số của 1.000 đô la. Nếu một trái phiếu được mua ở mức dưới mệnh giá, khoản chênh lệch chính là chiết khấu trái phiếu. Vì trái phiếu trả lại số tiền mệnh giá cho người mua khi đáo hạn, chiết khấu là thu nhập trái phiếu bổ sung cho người mua. Theo cách tương tự, nếu một trái phiếu được mua ở mức giá trên mệnh giá bao gồm phí bảo hiểm trái phiếu, phí bảo hiểm là một chi phí bổ sung cho người mua trái phiếu vì người mua chỉ nhận được số tiền mệnh giá khi đáo hạn.
Phương pháp lãi suất thực và phần bồi thường Giả sử một nhà đầu tư mua trái phiếu với mệnh giá 500.000 đô la và lãi suất coupon là 6%. Các trái phiếu được mua với giá 375,107 đô la, bao gồm chiết khấu trái phiếu từ mệnh giá 122,893 đô la. Thu nhập lãi của trái phiếu được tính bằng giá trị sổ sách nhân với lãi suất thị trường. Đây là tổng lợi nhuận kiếm được từ trái phiếu được chiết khấu và lãi thu được. Trong trường hợp này, giả sử lãi suất thị trường là 10%, được nhân với giá trị sổ sách là 375,107 đô la để tính ra 37,710 đô la trong thu nhập lãi.
Trái phiếu trả lãi hàng năm là 6% trên số tiền mệnh giá 500.000 đô la, tương đương 30.000 đô la. Chênh lệch giữa lãi phải trả và thu nhập lãi, tương ứng 7.710 đô la, là số tiền của khoản chiết khấu trái phiếu cho năm đầu tiên. Tích lũy trái phiếu trong năm được chuyển vào thu nhập trái phiếu và số tiền bồi thường cũng được thêm vào giá trị sổ sách. Giá trị sổ sách mới tăng lên 384.817 đô la, được sử dụng để tính tiền bồi thường trái phiếu cho năm thứ hai. Vào cuối thời hạn 10 năm của trái phiếu, giá trị sổ sách được điều chỉnh bằng với số tiền mệnh giá 500.000 đô la.
Bao thanh toán trong khấu hao trái phiếu
Một trái phiếu được mua với giá cao tạo ra chi phí sử dụng vốn vay lớn hơn cho người mua trái phiếu, bởi vì phí bảo hiểm được trả khấu hao vào chi phí trái phiếu. Giả sử, trong trường hợp này, một trái phiếu mệnh giá 100.000 đô la, lãi suất 4.5%, được mua với giá 104,100 đô la, bao gồm phí bảo hiểm 4,100 đô la.
Khoản thanh toán lãi hàng năm cho trái phiếu là 4.500 đô la, nhưng thu nhập lãi thu được trong năm đầu tiên chưa đến 4.500 đô la vì trái phiếu được mua với lãi thị trường chỉ 4%. Thu nhập lãi thực tế là 4% nhân với giá trị sổ sách 104.100 đô la, tương đương 4.164 đô la, và khấu hao bảo hiểm cho năm đầu tiên là 4.500 đô la trừ 4.164 đô la, tương đương 336 đô la. Khoản khấu hao 336 đô la được ghi vào chi phí trái phiếu và số tiền này cũng làm giảm giá trị sổ sách của trái phiếu.
3. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường:
3.1. Vai trò của lãi suất đối với quyết định của các chủ thể trong nền kinh tế:
Đối với cá nhân, hộ gia đình: lãi suất ảnh hưởng nhiều đến quyết định như chi tiêu hay để dành, mua nhà mua trái phiếu hay gửi vốn vào một tài khoản tiết kiệm. Đối với cá nhân hay hộ gia đình khi lãi suất của tiền gửi tiết kiệm tăng họ sẽ lựa chọn gửi tiền vào ngân hàng hơn là mua các giấy tờ có giá bởi khi đó giá của chúng sẽ giảm. Ngược lại khi lãi suất giảm họ sẽ đầu tư vào các khoản mục đầu tư khác và sẽ cân nhắc khả năng gửi tiền vào ngân hàng vì lãi suất thấp hơn lợi nhuận nhận được từ những hình thức đầu tư khác.
Đối với các doanh nghiệp: lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Lãi suất có thể coi là chi phí của doanh nghiệp. Khi lãi suất thấp có nghĩa là chi phí của vốn đầu tư thấp, điều đó sẽ khuyến khích doanh nghiệp mở rộng đầu tư. Bớt một đồng chi phí là tăng một đồng lợi nhuận vì thế họ sẽ tìm cách tối đa hoá lợi nhuận trên một đồng chi phí. Có thể nói rằng lãi suất đóng vai trò là công cụ bắt buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn một cách triệt để, có hiệu quả.
Đối với Nhà nước: lãi suất không chỉ là một công cụ nhằm huy động hay cho vay vốn mà còn là công cụ quản lý vĩ mô quan trọng nhằm điều tiết sản xuất kinh doanh theo đúng hướng, xử lý hài hoà giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, điều hành gián tiếp chính sách tiền tệ quốc gia để thực hiện các mục tiêu của mình: ổn định giá cả đồng nội tệ, tăng trưởng kinh tế ở tốc độ cao (trên 7%) và công ăn việc làm đầy đủ.
3.2. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường:
Lãi suất là phương tiện kích thích lợi ích vật chất để thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế
Lãi suất là một loại giá cả đặc biệt của việc buôn bán vốn tiền tệ, do đó nó cũng tuân thủ quy luật cung cầu thị trường. Muốn thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ các chủ thể trong nền kinh tế, ngoài việc phục vụ tốt còn đòi hỏi giá cả(lãi suất) hợp lý và hấp dẫn.Đối với ngân hàng, lãi suất huy động tiền gửi cao sẽ kích thích lòng ham muốn lợi nhuận của khách hàng đối với ngân hàng. Do đó nếu ngân hàng muốn tăng cường huy động vốn có thể bằng nhiều biện pháp trong đó có công cụ lãi suất.
Lãi suất tín dụng là công cụ kích thích đầu tư phát triển
Với lãi suất cho vay hợp lý sẽ kích thích các nhà đầu tư vay vốn mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, tạo nhiều sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập quốc dân, từ đó tạo điều kiện cho nền kinh tế ngày càng phát triển Lãi suất tín dụng là đòn bẩy kích thích ngân hàng và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, thực sự quan tâm đến kết quả sản xuất kinh doanh để đảm bảo hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi. Đối với các ngân hàng, hoạt động chủ yếu là huy động để cho vay. Do đó ngân hàng phải tìm nhiều biện pháp thiết thực để thu hút mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, thực hiện các biện pháp cho vay có hiệu quả, sao cho đáp ứng được các yêu cầu hạch toán kinh tế.
Lãi suất là một trong những công cụ đánh giá “sức khoẻ” của nền kinh tế
Căn cứ vào biến động của lãi suất hoặc tình hình lãi suất trong một thời kì có thể dự báo được một số yếu tố của nền kinh tế: các cơ hội đầu tư, tình hình tiền tệ, tình hình kinh tế trong tương lai…Từ đó các ngân hàng hoặc doanh nghiệp có điều kiện để chuẩn bị và lựa chọn các phương án kinh doanh cho phù hợp.
Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Hiện nay nước ta đang trong thời kỳ quá độ, trong những giai đoạn xây dựng những cơ sở vật chất để đi lên Chủ nghĩa Xã hội. Chiến lược nhiệm vụ trong toàn thời kỳ này của đất nước ta là: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vậy để có thẻ tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng sản xuất thì vấn đề không thể thiếu được là vốn.