Phong trào chống thực dân Hà Lan của nhân dân Indonesia diễn ra như thế nào luôn là vấn đề được các thầy cô giáo và các bạn học sinh quan tâm trong chương trinh giáo dục môn Lịch sử. Cùng tìm hiểu thông qua bài viết sau đây nhé
Mục lục bài viết
1. Phong trào chống thực dân Hà Lan của nhân dân Indonesia:
1.1. Nguyên nhân:
– Nguyên nhân dẫn đến Phong trào chống thực dân Hà Lan của nhân dân Indonesia là do mâu thuẫn giữa nhân dân Indonesia và thực dân Hà Lan ngày càng sâu sắc => bắn phá nhiều phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc.
1.2. Các phong trào đấu tranh tiêu biểu:
– Cuối thế kỷ XIX, hàng loạt phong trào đấu tranh yêu nước đã diễn ra:
+ Cuộc nổi dậy của nhân dân Achaeus (10/10/1873).
+ Cuộc khởi nghĩa nông dân do Samin lãnh đạo (1890).
– Đầu thế kỷ XX, hai xu hướng cứu nước (dân chủ tư sản và vô sản) cùng tồn tại trong phong trào yêu nước của nhân dân Indonesia.
+ Phong trào công nhân sớm được hình thành cùng với sự ra đời của các tổ chức: Hội Công nhân Đường sắt (1905), Hội Công nhân Đường sắt (1908),…
+ Giai cấp tư sản dân tộc ngày càng lớn mạnh, tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản châu Âu => có vai trò nhất định trong phong trào yêu nước ở Indonesia đầu thế kỷ XX.
ND chính
Tóm tắt nguyên nhân và phong trào đấu tranh tiêu biểu của phong trào chống thực dân Hà Lan ở Indonesia.
Sơ đồ tư duy phong trào chống thực dân Hà Lan ở In-đô-nê-xi-a
2. Sự thống trị của Hà Lan với chính sách của Đanđên:
Đầu thế kỷ XIX, Hà Lan trở thành thuộc địa của Pháp dưới thời Napoléon nên phải thực hiện chính sách “bao vây kinh tế” đối với Anh. Mâu thuẫn giữa Anh và Hà Lan tại các địa chỉ ngày càng trở nên gay gắt.
Sau khi Công ty Đông Ấn Hà giải thể, chính phủ Hà Lan cử Danden làm thống đốc. Dandel sẵn sàng chiến đấu với người Anh, tổ chức lại quân đội của các lãnh chúa để thực hiện chế độ cưỡng bách tòng quân, bắt nô lệ phải nhập ngũ. giác quan. Đồng thời xây dựng các công trình phòng thủ, ra lệnh cho các lãnh chúa ép nông dân xây dựng con đường dài 1000km từ Tây Java đến Đông Java. Các trại quân sự khắp nơi, các nhà máy quân đội, bệnh viện quân đội, pháo đài chiến tranh cố gắng xây dựng ở các thành phố quan trọng như Batavia, Surabaia, Semarang… Máu xương của hàng vạn nông dân đã hoàn thành những công trình trên. của Đan. Ở Bantam, để xây dựng thành lũy, người ta đã sử dụng 1500 chiếc bánh tráng, một khi đã xây xong thì không ai còn sống trở về. Các cấp bậc chiến đấu của quân đội được cách chức và thay thế bằng chân.
Trong tình trạng cạn kiệt tài chính, lại bị người Anh phong tỏa bằng đường biển, và các nhà kho của Hà Lan ở Indonesia chứa đầy hạt tiêu và các sản phẩm khác không thể vận chuyển đi đâu để bán, Dandel vẫn duy trì phương pháp bóc vỏ cũ, có nghĩa là bóp chặt bằng thuế nặng, bán những vùng đất rộng lớn cho người châu Âu và người Trung Quốc để lấy tiền. Người mua đất được trao quyền sử dụng đất và quản lý dân cư trên đất đó, có quyền bổ sung người cai trị, cưỡng bức lao động và thu thuế. Dandel độc quyền mua bán lọ và muối. Người dân Java bị săn bắt dưới chế độ chuyên chế và bóc lột nặng nề. Năm 1811, quân Anh đổi đất chiếm đóng Batavia. Lính Indonesia giết sĩ quan Hà Lan rồi bỏ chạy. Chính phủ Hà Lan phải ký giấy đầu hàng trao quyền thống trị cho Anh.
3. Sự thống trị của Anh ở Indônêxia (1811-1815):
Sau khi lợi dụng Indonesia, Anh cử Rayphelit làm Toàn quyền đến quan hệ với các lãnh chúa ở đây, xúi giục họ quay sang chống Hà Lan. Khi thống trị Java, Rayphlit đã tìm mọi cách để ngăn cản người Hà Lan và những người nước ngoài khác dễ dàng đến Java.
Về phần các lãnh chúa phong kiến, Rayphelit cách chức các hoàng tử không theo lệnh, chia Java thành 16 quận. Theo nghĩa nào đó, các lãnh chúa giữ chức vụ tù trưởng, nhưng trên thực tế, họ nói rằng họ không có thẩm quyền, vì ở rìa có những giám sát viên người Anh đã chết. Các lãnh chúa phong kiến kiến trúc đã xem xét thành công lĩnh vực tiền lương hàng tháng của thực dân Anh.
Sau khi giành được lợi ích từ Indonesia, Anh cử Rayphelit làm Toàn quyền đến liên lạc với các lãnh chúa ở đây, xúi giục họ quay lưng lại với người Hà Lan. Khi thống trị Java, Rayphlit đã làm mọi cách để ngăn cản người Hà Lan và những người nước ngoài khác dễ dàng đến Java.
Về phần các lãnh chúa phong kiến trúc, Rayphelit cách chức các hoàng tử không tuân lệnh, chia Java thành 16 quận. Theo nghĩa đó, các lãnh chúa giữ chức vụ trưởng phòng, nhưng thực tế họ nói rằng họ không có thẩm quyền, vì trong khi đó đã có những giám đốc người Anh đã chết. Các lãnh chúa phong kiến giàu có đã thành công trong việc nghiên cứu lĩnh vực tiền lương hàng tháng của thuộc địa Anh.
Về tư pháp, Riffylites cấm giữ nô lệ và bán nô lệ được tạo ra. Nguồn lao động phục vụ nhu cầu tư bản.
Là nước tư bản công nghiệp hóa hàng đầu, tư bản Anh đã đầu tư rất nhiều vào việc khai thác Indonesia. Về khách hàng, chính sách thuộc địa của Anh có hiệu quả hơn trong việc kích thích phát triển kinh tế so với thực dân Hà Lan. Số lượng tàu buôn châu Âu vào quần đảo tăng gấp 11 lần, vốn nước ngoài cũng xâm nhập vùng nông thôn mạnh mẽ hơn. Tất nhiên, hiện tượng này sẽ dẫn đến hậu quả tai hại là ngành thủ công mỹ nghệ ở Java bị đàn áp mạnh mẽ. Cơn lốc của thực dân Anh khác hẳn với Hà Lan nhưng hoàn cảnh sống khốn khổ của người dân Indonesia vẫn không thay đổi, luôn đói khát, không còn đường sống.
Nhưng lý lịch của người Anh ở Indonesia rất ngắn. Sau khi Đế quốc Napoléon tan rã, Hà Lan độc lập, Anh muốn Hà Lan trở thành đồng minh trên lục địa châu Âu và trả lại cho Hà Lan một số địa chỉ mà Anh từng sử dụng. Indonesia trở lại với thực dân Hà Lan.
4. Chế độ cướng bức trồng trọt của thực dân Hà Lan:
Sau khi khôi phục lại quyền cai trị, thực dân Hà Lan cố gắng lợi dụng chính sách của Rayphlit nhưng không thể thực hiện được. Anh và Mỹ dựa vào sự năng động sau khi đánh bại Hà Lan, thua khách hàng. Thu nhập của Hà Lan từ cả doanh thu thương mại và thuế đều đang bị đe dọa. Năm 1819, tàu buôn của Anh đến Java có 62 tàu, Mỹ có 53 tàu và Hà Lan chỉ có 43 chiếc.
Trước nguy cơ Indonesia rơi vào tay Anh bằng biện pháp đàn áp kinh tế, thực dân Hà Lan đã ngay lập tức bãi bỏ chế độ Rayphlist và thực hiện chính sách bóc lột lạc hậu hơn, tàn bạo hơn nhưng có lợi hơn cho Hà Lan.
Trước đây đối với thương mại, chúng tôi giữ quyền ưu đãi và thực hiện bảo vệ thuế đối với thương mại của Hà Lan. Kết quả là nhập khẩu hàng dệt may của Hà Lan tăng nhiều hơn trước, ví dụ: năm 1819 hàng dệt may Hà Lan sử dụng 1/3 tổng lượng hàng dệt may nhập khẩu, đến năm 1830 nó đứng sau hàng dệt may của Anh và sử dụng tỷ lệ 2/3.
Về nông nghiệp, Hà Lan áp dụng chính sách lột vỏ vô cùng tàn nhẫn. Đó là chính sách “cưỡng bức canh tác” của Vanden Bot (Vanden Bosch) bắt đầu từ năm 1830. Theo đó, nông dân phải dành 1/5 diện tích đất đai của mình để trồng cây công nghiệp theo quy định của chính quyền thuộc địa. chẳng hạn như mía, cà phê, thuốc lá, cao su, v.v. Nông dân bán sản phẩm này thu tiền ủy thác thay vì thuế. Xã nào quản lý thì toàn xã hội cam kết chịu trách nhiệm trồng, chăm sóc và thu hoạch cây công nghiệp cho chính phủ. Nhưng trên thực tế, đất phải được trao cho Hà Lan bằng cách sử dụng tới 1/2 hoặc 2/3 diện tích đất thuộc sở hữu của nông dân hoặc công xã. Số ngày làm việc quy định là 66 ngày nhưng nông dân thường phải mất hơn hai trăm ngày. Ngoài ra, việc thu thêm thuế đã được chính quyền thực dân quy định, nông dân còn phải bổ sung bảo lãnh cho làng xã, việc ăn Tết để phục vụ địa chủ và quan lại. Người nào cũng đè nặng lên đầu người nông dân, khiến cuộc sống của họ rất khốn khổ.
Thực dân Hà Lan dùng chính sách khuyến khích quan lại địa chủ, cấm một số quyền để khuyến khích và giám sát nông dân. Nhiều quốc vương đã được khôi phục lại danh hiệu cũ, được hưởng mức thu nhập tối thiểu từ việc trồng rừng, đồng thời có được quyền lực tập thể và quyền sử dụng đất vĩnh viễn. Vì vậy, những người cai trị địa phương đã cố gắng liên kết với thực dân và đè bẹp nông dân.
Chính sách trên khiến đời sống người nông dân vô cùng khốn khổ. Ngoài lao động làm ruộng, nông dân còn phải làm công việc làm đường, sửa cầu, xây dựng thành trì. Bộ máy hành chính xã nông thôn hoàn toàn trở thành cơ quan tiếp theo bóc lột nhân dân của thực dân Hà Lan.
Nếu việc khuyến khích ngâm mình của Vanden Bot là một thảm họa đối với nông dân thì ngược lại, đó lại là một biện pháp nghiên cứu tốt đối với thực dân Hà Lan. Nhờ chính sách này, Hà Lan đã thu được lợi nhuận như kế hoạch. Không có gì có thể qua được nợ nần mà còn là nguồn vốn lớn để phát triển công nghiệp. Chỉ trong 10 năm đầu tiên, chế độ bắt buộc phải nhập cư đã mang lại cho Hà Lan nhiều mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Trong suốt 40 năm thực hiện chính sách này (1830-1870), thực dân Hà Lan đã kiếm được số tiền lãi bằng thu nhập của Công ty trong 200 năm. Nhờ số tiền này, Hà Lan đã có khả năng phát triển công nghiệp trong nước, đồng thời có khả năng đầu tư xây dựng và khai thác ngay trên đất Indonesia. Nhưng chế độ khuyến khích ngày càng tăng dần dần trở thành lực cản đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Hà Lan. Công nghiệp Hà Lan ngày càng phát triển Đòi hỏi thị trường tiêu dùng nhưng sức mua của nông dân Indonesia quá nguy hiểm vì bị bóc lột một cách dã man.