Như chúng ta đã biết thì kiểu nhà nước phong kiến chính là kiểu nhà nước thứ hai trong lịch sử xã hội loài người, được ra đời trên sự tan dã của chế độ chiếm hữu nô lệ. Hiện nay khi nhắc tới khái niệm phong kiến liệu chúng ta đã hiểu đúng về nó hay chưa? Xã hội phong kiến và nhà nước phong kiến?
Mục lục bài viết
1. Phong kiến là gì?
Từ mấy nghìn nǎm nay, xã hội Việt Nam bị chế độ phong kiến thống trị.
Chế độ phong kiến tức là chế độ địa chủ bóc lột nông dân.
Địa chủ chiếm tư liệu sản xuất, tức là ruộng đất, nông cụ, vân vân, làm của riêng, nhưng họ không cày cấy. Nông dân buộc phải mướn ruộng đất của địa chủ, phải nộp tô cho địa chủ, lại còn phải hầu hạ và lễ lạt địa chủ. Nông dân không khác gì nô lệ.
Nông dân quanh nǎm tay lấm chân bùn, đầu tắt mặt tối, nhưng vẫn nghèo khổ. Địa chủ thì không nhắc chân động tay, mà lại cửa cao nhà rộng, phú quý phong lưu. Đó là một chế độ cực kỳ không công bằng.
Nông dân vì nghèo khó, không thể nâng cao mức sản xuất. Địa chủ thì chỉ lo lấy địa tô, không lo cải thiện sự sản xuất. Vì vậy, sản xuất không thể nâng cao.
Nhà nước phong kiến được xây dựng trên cơ sở của phương thức sản xuất phong kiến mà nền tảng là nền kinh tế dựa trên sở hữu của giai cấp địa chủ phong kiến đối với ruộng đất cũng như một số tư liệu sản xuất khác, và sở hữu cá thể của của nông dân trong sự lệ thuộc vào giai cấp địa chủ.
Ở những nhà nước phong kiến hình thành trên nền tảng công xã nông thôn thì sở hữu đất đai có những đặc thù riêng. Bằng các chính sách phong kiến, đặc biệt là các chính sách thuế ruộng các chính quyền phong kiến bắt đầu xác lập quyền sở hữu trên danh nghĩa của nhà nước đối với ruộng đất của công xã, nhưng chấp nhận và tôn trọng quyền sở hữu ruộng đất trên thực tế của công xã.
Xã hội phong kiến có kết cấu giai cấp khá phức tạp. Trong xã hội có hai giai cấp chính là nông d
Đặc điểm của chế độ phong kiến là: nông dân sản xuất một cách rời rạc. Địa chủ bóc lột một cách tàn tệ.
Nhà nước phong kiến là nhà nước của giai cấp địa chủ. Nó lấy vua chúa làm trung tâm. Nó dùng mồ hôi nước mắt của nông dân để nuôi một bầy quan lại và quân lính, đặng áp bức bóc lột nông dân.
Trải mấy nghìn nǎm, nông dân nhiều phen nổi lên chống chế độ phong kiến địa chủ, nhưng kết quả thất bại, vì họ không biết tổ chức chặt chẽ. Nông dân cần có một giai cấp tiền tiến lãnh đạo – tức là giai cấp công nhân, thì mới chắc chắn được giải phóng.
Từ ngày kháng chiến, nông dân ta được chia ruộng đất của thực dân Pháp và của Việt gian, được giảm tô giảm tức. Nhưng đó chỉ mới là bước đầu. Muốn hoàn toàn giải phóng, thì với sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, nông dân ta phải hǎng hái và kiên quyết tiến lên nữa.
2. Phong kiến tiếng Anh là gì?
Phong kiến tiếng anh là ” feudal society”.
3. Xã hội phong kiến và nhà nước phong kiến:
3.1. Xã hội phong kiến:
Xã hội phong kiến là chế độ xã hội theo sau xã hội cổ đại, và được hình thành trên cơ sở tan rã của xã hội cổ đại. Quá trình suy vong của xã hội cổ đại phương Đông và xã hội cổ đại phương Tây không giống nhau. Do vậy, sự hình thành xã hội phong kiến ở hai khu vực này cũng có những điểm khác biệt.
Sự hình thành và phát triển của xã hội phong kiến:
+ Xã hội phong kiến phương Đông
Được hình thành sớm (từ thế kỷ III TCN đến khoảng thế kỷ X), nhưng lại phát triển chậm chạp (từ thế kỷ X đến thế kỷ XV), quá trình khủng hoảng suy vong kéo dài từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX, lệ thuộc hoặc là thuộc địa của các nước tư bản phương Tây.
+ Xã hội phong kiến phương Tây
Được hình thành muộn hơn (từ thế kỷ V đến khoảng thế kỷ X), phát triển trong giai đoạn từ thế kỷ XI đến khoảng thế kỷ XV, kết thúc sớm hơn, rơi vào khủng hoảng suy vong (từ thế kỷ XIV đến khoảng thế kỷ XV) nhường chỗ cho chủ nghĩa tư bản.
Cơ sở kinh tế của xã hội phong kiến chủ yếu là kinh tế nông nghiệp kết hợp chăn nuôi và một số nghề thủ công nghiệp.
+ Ở phương Đông: sản xuất nông nghiệp đóng kín trong các công xã nông thôn.
+ Ở phương Tây: sản xuất nông nghiệp đóng kín trong các lãnh địa phong kiến.
Ruộng đất nằm trong tay lãnh chúa hay địa chủ, giao cho nông dân hay nông nô cày cấy rồi thu tô, thuế.
3.2. Nhà nước phong kiến:
Nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước thứ hai trong lịch sử xã hội loài người, ra đời trên sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ hoặc xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thủy. Bản chất của nhà nước phong kiến thể hiện ở việc xây dựng bộ máy chuyên chính của vua chúa phong kiến và địa chủ.
Cơ sở kinh tế của nhà nước phong kiến là phương thức sản xuất phong kiến với nét đặc trưng là chế độ chiếm hữu ruộng đất của vua chúa phong kiến và giai cấp địa chủ. Lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội là giai cấp nông dân.
Nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước tương ứng với hình thái kinh tế – xã hội phong kiến, là nhà nước phát triển cao hơn nhà nước chiếm hữu nô lệ. Chế độ phong kiến có những đặc điểm khác nhau giữa phương Tây và phương Đông. Cụ thể:
Đặc điểm | Phương Tây | Phương Đông |
Thời gian | Ở phương Tây, nhà nước phong kiến hình thành sớm nhất là thế kỷ V sau công nguyên (Tây Âu). | Chế độ phong kiến phương Đông hình thành sớm nhất ở Trung Quốc từ thế kỷ III trước công nguyên. |
Không gian | Chế độ phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ đã từng phát triển đến đỉnh cao, quan hệ nô lệ mang tính chất điển hình. | Chế độ phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ nô lệ phát triển không đầy đủ, quan hệ nô lệ mang tính chất gia trưởng. |
Cơ sở kinh tế – xã hội của nhà nước phong kiến | Chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển triệt để từ thời chủ nô. Trong thời phong kiến, chế độ tư hữu ruộng đất được phát triển lên mức cao hơn gọi là các lãnh địa. Thời kỳ đầu, người nông dân tự do cũng có ruộng đất nhưng cùng với sự phát triển của chế độ ruộng đất phong kiến mà dần dần người nông dân bị mất ruộng và phải lệ thuộc đất vào địa chủ, phong kiến… Địa chủ, phong kiến là những người có đất nhưng không trực tiếp canh tác mà cho nông dân thuê đất cày cấy và thu về địa tô. Mức địa tô nhìn chung là tương đối nặng nề. Quan hệ sản xuất trong xã hội là quan hệ giữa địa chủ, phong kiến và nông dân. Bên cạnh đó, nhà thờ thiên chúa giáo cũng chiếm hữu nhiều đất đai lập thành lãnh địa lớn, các vị linh mục, thầy tu cũng là những địa chủ phong kiến lớn nhỏ khác. | Chế độ ruộng đất không thuần nhất như ở phương Tây mà quyền sở hữu ruộng đất thuộc về nhà Vua (nhà nước), đồng thời đối với ruộng đất tư nhân, vua cũng có quyền sở hữu tối cao. Nhà nước đem ruộng đất thuộc sở hữu công ban cấp cho quan lại làm bổng lộc và cho nông dân cày cấy. Khi lực lượng sản xuất phát triển, ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân bắt đầu hình thành và phát triển thành sở hữu của địa chủ, của cơ sở tôn giáo,… |
Ngoài ra, điều kiện về kinh tế – xã hội cũng sẽ quyết định bản chất của nhà nước phong kiến. Tính giai cấp của nhà nước phong kiến thể hiện sâu sắc, rõ nét không kém nhà nước chủ nô. Nhà nước phong kiến là bộ máy bảo vệ lợi ích kinh tế cho giai cấp địa chủ phong kiến, là công cụ chuyên chính giúp giai cấp địa chủ phong kiến đàn áp giai cấp nông dân, thợ thủ công, dân nghèo. Tóm lại, quyền lực của nhà nước phong kiến tập trung chủ yếu vào việc đàn áp và bóc lột người dân lao động.
Tính xã hội, nhà nước phong kiến là đại diện cho toàn thể xã hội, nên sứ mệnh của nhà nước phong kiến là tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội. So với nhà nước chủ nô, tính xã hội của nhà nước phong kiến rõ nét hơn, nhà nước đã quan tâm nhiều đến việc giải quyết những vấn đề chung cho toàn xã hội. Do vậy, các hoạt động kinh tế xã hội của nhà nước cũng thiết thực hơn.
Như vậy, có thể thấy, dù có sự khác nhau giữa nhà nước phong kiến phương Tây và nhà nước phong kiến phương Đông nhưng vẫn có chung một bản chất. Đó là nhà nước phong kiến đàn áp, bóc lột nhân dân lao động, bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai cấp thống trị.