Dưới ngòi bút Nguyễn Minh Châu, người đàn bà khốn khổ trong "Chiếc thuyền ngoài xa" lại làm lòng ta quặn thắt khi vội lau dòng nước mắt để cất bước theo chồng tất tả cuộc mưu sinh. Dưới đây là bài viết về chủ đề: Phân tích tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài, mời bạn đọc theo dõi.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý Phân tích tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài:
I. Mở bài
– Giới thiệu Kim Lân và Nguyễn Minh Châu là những tác giả nổi tiếng trong văn học Việt Nam với phong cách sáng tạo độc đáo.
– Tuyển lựa hai tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân và “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu để thể hiện sự diễn cảm về tình mẫu tử trong văn học.
II. Thân bài
Phần 1: Tình mẫu tử trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân
– Giới thiệu bà cụ Tứ, một nhân vật nông dân đầy tình mẫu tử, tận tâm với con cái, dù trong cảnh khó khăn và nghèo hèn.
– Mô tả tình mẫu tử của bà qua việc bà nhận người đàn bà xa lạ làm con dâu và hy vọng họ sẽ hạnh phúc, che đậy nỗi đau và lo lắng riêng của bà.
– Phân tích ý nghĩa triết lí dân gian đơn giản nhưng sâu sắc mà bà cụ Tứ thể hiện, nhấn mạnh rằng tình thương yêu con giúp bà sống lạc quan và tin vào tương lai.
Phần 2: Tình mẫu tử trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
– Giới thiệu người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ nghèo, sống khó khăn trên biển nhưng vẫn tỏ ra đầy tình mẫu tử và yêu thương con cái.
– Mô tả cách người đàn bà này bảo vệ và chăm sóc cho con cái mình dù trong điều kiện vất vả, và quyết tâm chung sống với người đàn ông vũ phu để con cái có bố.
– Phân tích sự hạnh phúc bình dị của người đàn bà hàng chài khi thấy con cái được ăn no, với tình thương con là nguồn động viên mạnh mẽ.
III. Kết bài
– Đánh giá tài năng của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu trong việc diễn cảm và thể hiện tình mẫu tử trong văn học.
– Tóm tắt ý nghĩa của tình mẫu tử, là nguồn động viên và sức mạnh đáng kể cho cuộc sống của những người mẹ nghèo khó, nhấn mạnh tình thương yêu con là nguồn động viên lớn để họ sống lạc quan và đối diện với khó khăn.
2. Phân tích tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài hay nhất:
Văn chương mang đến những giọt nước mắt rớt rơi vào tâm hồn mỗi con người thì cũng là lúc trái tim ta biết rung động. Nếu như đọc “Vợ nhặt” của Kim Lân, ta không quên được hình ảnh bà cụ Tứ lặng lẽ khóc thầm trong bóng đêm, thì dưới ngòi bút Nguyễn Minh Châu, người đàn bà khốn khổ trong “Chiếc thuyền ngoài xa” lại làm lòng ta quặn thắt khi vội lau dòng nước mắt để cất bước theo chồng tất tả cuộc mưu sinh. Mỗi nhà văn, với thiên chức của mình, đã điểm thêm cho văn học Việt Nam những dòng nước mắt lấp lánh, chứa đầy yêu thương và trân trọng.
Dưới ngòi bút nhẹ nhàng, tinh tế của mình, Kim Lân đã rất thành công khi ba lần miêu tả dòng nước mắt của bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ, cũng như bao người mẹ nghèo ở chốn thôn quê ngày ấy, luôn mơ ước ngày được “dựng vợ gả chồng cho con”. Nhưng, éo le thay, ước mơ giản dị đó lại đến với bà trong một buổi chiều “tối sầm lại vì đói khát”. Ranh giới giữa sự sống và cái chết dường như quá mong manh. Khi Tràng đưa về nhà một người vợ, gia đình Tràng đang đói quay đói quắt, và mỗi sáng, người ta đã quá quen với những cái thân xác “nằm còng queo bên đường”. Liệu bà cụ Tứ có chấp thuận mối nhân duyên này không? Sau giây lát ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, bà lão “cúi đầu nín lặng”, Tràng, người “vợ nhặt,” và cả độc giả nữa, dường như cũng nín lặng vì hồi hộp. Chợt, “trong kẻ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.” Dòng nước mắt rỉ ra hiếm hoi trên gương mặt già nua của một người dường như đã cạn khô nước mắt. Bà không chỉ hiểu, mà còn thấy được những tháng ngày khổ cực, lam lũ sắp tới khi gia đình có thêm một miệng ăn. Tâm trạng bà đan xen vui mừng, buồn tủi với thương lo. Vui mừng vì con mình giờ đây đã có vợ. Nhưng nghĩ đến cảnh nhà quá nghèo, bổn phận mình là mẹ mà không lo được gì cho các con khiến niềm vui của bà không sao cất cánh lên được. Cuối cùng, như bao người mẹ Việt Nam hiền lành, nhân hậu, bà cụ đồng ý tác hợp cho đôi vợ chồng trẻ: “thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng.” Lòng ta bỗng nhẹ lại, vui lây niềm vui của Tràng. Giữa những năm “đói mòn đói mỏi” ấy, tình người chợt vụt sáng trên nền trời ảm đạm. Bao nhiêu khó khăn, vất vả dần tan biến, đọng lại bấy giờ chỉ còn là tình thương.
Tuy vẫn còn đó hiện thực cuộc sống khắc nghiệt, chỉ chực dồn ép con người ta đến chân tường. Nước mắt bà lão lại cứ “chảy xuống ròng ròng,” nhưng bà không buồn lau. Nghĩ về cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình và tương lai của các con, bà vẫn lo lắng không nguôi: “Năm nay thì đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá.” Nhưng buổi sáng sau đêm “tân hôn” của các con, bà lão “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên.” Bà nhanh nhẹn, xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Ta thấy trong bà dường như có một sự thay đổi theo hướng tích cực: bà toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bức tranh ngày đói dường như được tô sáng lên trong ánh nắng mùa hè và trong niềm vui của mỗi người. Nhưng nồi cháo cám đắng chát đã kéo con người quay về thực tại. Vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập, đàn quạ vẫn bay từng đám trên nền trời như những đám mây che lấp ánh sáng của niềm tin và của hy vọng. Bà cụ Tứ lại rơi nước mắt, nhưng không dám để mọi người thấy bà khóc. Trên gương mặt của người mẹ nghèo khổ, giọt nước mắt lăn giữa nụ cười. Và do đó, với truyện ngắn “Vợ nhặt,” Kim Lân đã hòa dòng nước mắt của bà cụ Tứ cùng với những khốn khó của đồng bào ta trong nạn đói năm Ất Dậu thành dòng chảy đau thương của lịch sử.
Tạm biệt những câu chuyện của những nhà văn đắm chìm trong chốn thôn quê, nơi đồng ruộng mênh mông, ta hướng tới một “người mở đường tinh anh và tài năng” khác, Nguyễn Minh Châu. Với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa,” chúng ta lại một lần nữa nhìn thấy nét đẹp tâm hồn ẩn sau những giọt nước mắt của những người phụ nữ Việt Nam.
Trong truyện, nhân vật người đàn bà hàng chài đã tạo ấn tượng mạnh mẽ với độc giả. Chị có một thân hình rắn chắc, thô kệch, và mỗi ngày, những trận đòn roi từ chồng vũ phu không làm chị hé môi lên nửa lời. Người ta có thể nghĩ rằng con người ấy cứng nhắc như một viên đá và không có điều gì có thể chạm vào trái tim của chị. Tuy nhiên, chị là người phụ nữ giàu lòng bao dung và thương con đến mức không tưởng. Chị hiểu rằng người chồng thay đổi tâm tính vì anh cũng là nạn nhân của hoàn cảnh, và chị yêu con bằng tình thương lớn lao, cao cả. Chị cũng là một người phụ nữ, yếu đuối nhưng phải kìm nén tâm hồn để sống vì các con. Khi giọt nước mắt của người phụ nữ mạnh mẽ ấy rơi xuống, lớp vỏ chai sần của cuộc đời không thể ngăn con người nội tâm trong chị tỉnh giấc. Đó là khi chị nhận ra rằng dù đã cố gắng một cách không biết mệt mỏi, nhưng chị không thể cứu vớt một gia đình đang tan vỡ; đó là khi luân lý đạo đức bị con mình dẫm đạp; đó là khi chị bất lực nhìn đứa con mình yêu thương nhất bước lên con đường sai trái chỉ để giải thoát cho mẹ. Nhưng con người bản năng không cho phép chị mềm yếu, chị vội vàng chạy theo chồng mình, giống như việc đuổi theo cuộc sống mưu sinh của hiện thực lạnh lùng và tàn khốc. Lần thứ hai tại tòa án huyện, chị lại khóc khi Phùng nhắc về cậu bé Phác, mặc dù chị luôn cố gắng không để lộ ra ngoài. Đối với chị, đứa con là niềm hạnh phúc, là lý do chị nhịn nhục, cam chịu và tồn tại trên cõi đời này. Nhưng cũng chính chúng đã mang lại niềm đau đớn tột cùng, chạm sâu vào tâm hồn yếu ớt của chị để những giọt lệ của chị rỏ ra đầy chua xót. Đó chính là bi kịch không lối thoát trong cuộc đời của những người phụ nữ miền biển như chị.
3. Phân tích tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài ngắn gọn:
Cả hai nhân vật, bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” và người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa,” đều là ví dụ xuất sắc về tấm lòng mẫu tử thiêng liêng và phẩm chất tốt đẹp của người mẹ Việt Nam. Dù ở trong hoàn cảnh khác nhau và đưa ra các quyết định khác nhau, họ đều biểu thị một tấm lòng đầy tình thương con và sự hi sinh.
Bà cụ Tứ xuất hiện trong tác phẩm “Vợ nhặt” với hình ảnh một người mẹ già yếu, sống với nghèo khó và cảm nhận mọi khó khăn của cuộc sống. Tuy nhiên, bà chấp nhận nàng dâu mới vì tình thương con và tâm lòng khoan dung. Bà đã dành cả cuộc đời để lo lắng và hy sinh cho con. Dấn thân vào cuộc sống khó khăn, bà không có gì để tặng con ngoài sự lạc quan và niềm tin vào tương lai. Bữa cơm đầy ý nghĩa của họ trong ngày đói đạt đến mức tối thiểu, nhưng bà đã cố gắng để con cảm thấy hạnh phúc và tương lai tươi sáng. Câu chuyện này đã chứng minh rằng tình yêu và lòng hi sinh của người mẹ có thể tạo ra niềm tin và sự lạc quan trong cuộc sống, dù bao nhiêu khó khăn.
Ngược lại, người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” được miêu tả với hình ảnh thô kệch và mệt mỏi, sống trong sự khắc khổ và cảm nhận nỗi đau từ sự bạo hành của chồng. Mụ chịu đựng mọi trận đòn roi vì tình thương con và sự lo lắng cho tương lai của họ. Mụ không thể buông bỏ chồng vì mụ biết rằng con cái mụ cần một gia đình đầy đủ. Tình yêu thương và khoan dung của mụ đã giúp họ vượt qua những khó khăn và tìm ra hạnh phúc dù trong bão táp của cuộc đời. Mụ đã giữ lấy sự hi vọng vào tương lai và tạo điều kiện cho con sống lạc quan, bất chấp hiện thực khắc nghiệt.
Dù ở trong hoàn cảnh khác nhau, cả hai nhân vật đều biểu thị lòng mẹ yêu con, tấm lòng nhân hậu và niềm tin vào tương lai. Họ đã chứng minh rằng trong mọi hoàn cảnh, tình yêu thương và lòng hi sinh của người mẹ luôn tỏa sáng và tạo nên niềm tin, sự lạc quan trong cuộc sống.