Tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đầy cảm xúc với hình ảnh anh dũng của những chiến sĩ Cần Giuộc cùng với tiếng khóc tiếc thương đối với những người đã hy sinh cho dân tộc. Dưới đây là bài viết về: Phân tích tiếng khóc trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc siêu hay.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý Phân tích tiếng khóc trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc siêu hay:
1.1 Giới thiệu:
Giới thiệu về bài viết “Phân tích tiếng khóc trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
1.2 Thân bài:
– Tiếng khóc xót thương cho người đã mất
Nội dung đoạn văn miêu tả tiếng khóc của tác giả, gia đình thân quyến và nhân dân Nam Bộ.
Phân tích sự tương đồng giữa tiếng khóc của tác giả với những người dân anh hùng xả thân cho Tổ quốc.
Đánh giá tầm vóc sử thi và tầm vóc thời đại của tiếng khóc này.
– Tiếng khóc cho người còn sống
Nội dung đoạn văn miêu tả tiếng khóc cho những người còn sống, bao gồm mẹ già, vợ yếu con thơ.
Phân tích sự đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với các gia đình liệt sĩ.
– Tiếng khóc cho quê hương, đất nước
Nội dung đoạn văn miêu tả tiếng khóc cho quê hương, đất nước.
Phân tích sự bi thương và đau đớn không chỉ trong lòng người mà còn tràn ngập khắp cỏ cây, sông núi.
Trích dẫn hai câu thơ để minh họa.
– Đau thương vô hạn nhưng không bi lụy
Phân tích nỗi đau vô hạn mà không gây tổn hại về tinh thần.
Tình cảm cảm phục và tự hào đối với người nghĩa sĩ.
Đánh giá ý nghĩa của bài viết và thông điệp mà tác giả muốn truyền tải đến độc giả.
1.3. Kết luận:
Tóm tắt lại các nội dung chính của bài viết.
Đưa ra nhận định cuối cùng về tác phẩm và ý nghĩa của nó.
2. Phân tích tiếng khóc trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc siêu hay:
Trong bài văn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, tình cảm của người viết đối với người đã khuất được bộc lộ rõ nét. Hình ảnh người nông dân – nghĩa sĩ được dệt nên từ dòng nước mắt của Đồ Chiểu đã tạo nên một tiếng khóc lớn, cao cả và thiêng liêng. Điều đó đã vượt ra khỏi ranh giới tình cảm riêng tư của người viết và trở thành tiếng khóc chung của cả dân tộc.
Ở đây, không chỉ có người viết mà cả dân tộc đang khóc những người con tiêu biểu của mình đã hy sinh cho đất nước. Đồ Chiểu đã trở thành biểu tượng của sự đau đớn, tương tư và cả sự biểu dương công trạng của những người nghĩa sĩ. Tiếng khóc được phát ra trong văn tế này không chỉ là của một cá nhân mà là của cả một cộng đồng, của dân tộc đang chung lòng tưởng nhớ những người đã hi sinh cho sự nghiệp độc lập, tự do của đất nước.
Với câu mở đầu ấn tượng, người đọc đã thấy rõ ràng rằng đó là một tiếng khóc chung của cộng đồng, của dân tộc đang tưởng nhớ và ca ngợi những người đã dâng hiến tất cả cho sự nghiệp độc lập của đất nước.
Phần Ai vãn trong bài văn tế này là nơi mà tiếng khóc được bộc lộ trực tiếp qua nỗi lòng Đồ Chiểu và tình cảm của nhân dân đối với những nghĩa sĩ đã hy sinh cho đất nước. Điều này được thể hiện rõ trong cách viết của người tác giả khi hình tượng người nông dân – nghĩa sĩ được dệt nên từ dòng nước mắt của Đồ Chiểu. Đây là một tiếng khóc lớn, cao cả và thiêng liêng, đã vượt ra khỏi tình cảm riêng tư để trở thành tiếng khóc chung của dân tộc.
Ở đây, các tình cảm đan cài vào nhau, những nguồn cảm xúc cộng hưởng với nhau trong tiếng khóc thương này, tạo nên một giọng điệu trữ tình đa thanh, giàu cung bậc. Đầu tiên, là nỗi xót thương vô hạn đối với những người nghĩa sĩ. Người viết đã dùng câu “Ôi thôi thôi!” để diễn tả cảm giác bất lực và xót xa của mình trước tình trạng băng giá đóng trên Chùa Tông Thạnh trong năm canh ưng. Người viết đã gửi tấm lòng son của mình trở lại bóng trăng rằm để thể hiện tình cảm sâu sắc của mình đối với những người đã hy sinh.
Đồng thời, tiếng khóc còn thể hiện sự đau đớn, tổn thương của cả dân tộc khi mất đi những người con tiêu biểu. Đây không chỉ là sự mất mát của các gia đình, mà còn là mất mát của cả quốc gia. Với tư cách là người đại diện cho nhân dân cả nước, Đồ Chiểu đã thay mặt cho toàn bộ dân tộc để khóc thương và biểu dương công trạng những người nghĩa sĩ đã hy sinh. Chính vì vậy, câu mở đầu của bài văn tế đã cho thấy đây là một tiếng khóc của cộng đồng, của dân tộc.
Nỗi căm hờn đó không chỉ đơn thuần là dành cho những kẻ gây ra nghịch cảnh éo le, mà còn bao trùm cả những tình huống khó khăn, cam go mà những người lính, quân sĩ phải đối mặt khi bảo vệ Tổ quốc. Họ phải trải qua những ngày đêm dưới tuyết giá rét, đói khát, mệt mỏi, đau đớn, vì chỉ vì sự nghiệp của đất nước. Những tin đồn, lời đồn đại không chỉ làm cho tinh thần các chiến sĩ yếu đi, mà còn làm tan tành những lũy đồn, chốn quân cứ, gây nguy hiểm cho cuộc chiến.
Tuy nhiên, nỗi đau thấu đẫm nhất trong tiếng khóc này lại là của những gia đình mất người thân, đặc biệt là những người phụ nữ già, những vợ trẻ phải sống cô đơn với tình thương chưa kịp trao hết, những đứa con thơ chưa kịp nhận được tình yêu thương từ bố, từ cha. Tiếng khóc của Đồ Chiểu không chỉ là cảm xúc riêng tư của người viết, mà còn là tiếng khóc chung của cả dân tộc, của những người biết ơn công lao của những nghĩa sĩ đã hi sinh cho đất nước. Họ ghi công, tôn vinh những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, và sự tôn kính đó sẽ mãi mãi được truyền lại đời sau đời.
Cảm xúc trong tiếng khóc này không chỉ đơn thuần là đau buồn, mà còn mang trong mình sự vinh quang, tình yêu thương và lòng biết ơn. Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ, đó là hình ảnh mà nhà thơ dùng để miêu tả những đóng góp lớn lao của những nghĩa sĩ, những người đã đem lại hy vọng cho cả dân tộc. Tiếng khóc của Đồ Chiểu trở thành một biểu tượng đậm nét trong lịch sử Việt Nam, là niềm tự hào, sự tôn kính và tình yêu thương vô hạn của dân tộc đối với những người anh hùng đã hy sinh vì Tổ quốc.
Tuy nhiên, không chỉ khóc cho những người đã mất, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc còn khóc cho những người còn sống như mẹ già và vợ yếu con thơ của những người lính đã hy sinh. Câu văn “Giờ đây những người mẹ già đêm đến khóc con những người vợ yếu chạy đi tìm” cho thấy sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với các gia đình liệt sĩ.
Ngoài ra, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc còn khóc cho quê hương, đất nước với nhiều niềm cảm thương cộng lại thành nỗi đau sâu nặng, không chỉ trong lòng người mà còn bao trùm khắp cỏ cây, sông núi. Những câu thơ như “Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng…” hay “Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen…” tạo nên một không khí tang thương, buồn bã.
Tuy nhiên, mặc dù đau thương vô hạn nhưng không bi lụy, bởi vì trong nỗi đau vẫn có niềm cảm phục và tự hào đối với người nghĩa sĩ. Đó là những người dân bình thường đã dám đứng lên bảo vệ từng tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo của mình chống lại kẻ thù hung hãn, để làm rạng ngời một chân lí cao đẹp của thời đại – thà chết vinh còn hơn sống nhục.
Tác phẩm đầy cảm xúc này đã tuyệt vời thể hiện hình ảnh can đảm và anh dũng của những chiến sĩ Cần Giuộc trong cuộc chiến, cùng với sự tiếc thương đối với những người đã hy sinh cho dân tộc Việt Nam. Đây là tiếng lòng của cả một dân tộc gửi đến anh hùng của mình, những người lính bi tráng của Cần Giuộc. Tác phẩm không chỉ mang lại cho độc giả những cảm xúc sâu sắc mà còn ca ngợi hình ảnh của những người lính can đảm này.
3. Phân tích tiếng khóc trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc siêu hay chọn lọc:
Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết về tác giả Nguyễn Đình Chiểu trong các tác phẩm “Tại sao có ánh sáng khác thường” và “Càng soi càng sáng”. Ánh sáng đặc biệt xung quanh ngôi sao ấy được góp phần bởi vầng hào quang của lòng yêu nước, thương dân sâu sắc.
Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho người nông dân một vị trí danh giá hiếm có trong sự nghiệp văn chương của mình. Đặc biệt, ông đã miêu tả tiếng kêu anh dũng trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thương tiếc những nghĩa sĩ anh dũng xuất thân là nông dân đã tham gia đánh đồn Pháp ở Cần Giuộc đêm 14-12-1861. Đây có thể coi là lần đầu tiên người nông dân đi vào thơ ca với tư cách là những dũng sĩ chiến đấu để cứu nước. Qua đây, Nguyễn Đình Chiểu đã rơi nước mắt vừa ngợi ca vừa xót xa cho những con người dũng cảm đó.
Thuật ngữ “tiếng khóc anh hùng” dùng để chỉ cả nỗi đau và sự dũng cảm. Ở đây, “tiếng kêu anh dũng” là tiếng kêu khâm phục tinh thần nghĩa sĩ của nông dân và cũng là tiếng kêu đau thương trước những mất mát to lớn của những con người đó.
Cuộc đấu tranh của công-binh bị áp bức và thất bại, đó là “nỗi đau” ai cũng thấy. Tuy nhiên, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đồng cảm với nỗi đau mang nặng đẻ đau của họ.
Khi giặc Pháp cầm súng nổ ầm ầm kéo đến thì nông dân là người chịu thiệt hại đầu tiên. Họ đã luôn phải vật lộn với đói nghèo, gian khổ, nay thực dân Pháp đang làm nhục dân tộc, bóc lột nhân dân, nông dân phải vùng lên khởi nghĩa. Họ đơn độc trong cuộc chiến, thiếu thốn mọi thứ: kinh nghiệm, quân phục và vũ khí. Họ chiến đấu bằng vũ khí thô sơ như giáo tre và dao bếp, trong khi quân Pháp có đạn nhỏ và lớn, tàu sắt và đồng, và vượt trội hơn nhiều về sức mạnh quân sự. Sự yếu đuối của người nông dân trong chiến tranh thật đáng thương.
Bi kịch mà ai cũng thấy là những người nông dân cách mạng phải xa gia đình ra trận, chịu cái chết nơi xứ người. Họ đã để lại cho hậu thế vô vàn mất mát, đau thương, như được miêu tả qua hình ảnh động lòng người “Dòng sông Cần Giuộc cỏ cây muôn dặm sầu trông chợ Trường Bình già trẻ nhỏ nỗi sầu nhỏ”. Hơn nữa, những người nông dân cách mạng này là trụ cột của gia đình, và sự ra đi của họ để lại những góa phụ, những đứa trẻ mồ côi, những người mẹ già với những đứa con thơ dại. Cảnh “mẹ già khóc con, ngọn nến chập chờn trong lều… vợ yếu chạy tìm chồng, bóng khuất vào bóng tối nơi cổng” gợi cảm giác xót xa, mất mát, da diết. nỗi đau.
Trong bài văn tế này, tác giả sử dụng những từ ngữ và hình ảnh để truyền tải nỗi đau sâu sắc của nhân dân. Tác phẩm đề cập đến những người nông dân nghĩa sĩ, những người đã có những ước mơ lớn lao về đánh giặc cứu nước. Dù bị coi thường và bị áp bức trong xã hội phong kiến, họ vẫn là người sản xuất ra của cải vật chất nuôi sống xã hội. Tác giả đã nhìn thấu tầm quan trọng của những người nông dân này và khẳng định công lao và thiệt thòi mà họ phải chịu đựng.
Trong các cuộc chiến, thường nhớ đến công lao của các tướng quân, nhưng bỏ quên nỗ lực của binh lính can trường. Tuy nhiên, Nguyễn Đình Chiểu đã tôn vinh họ bằng cách tôn vinh những vì hoa của họ.
Tình yêu đất nước của những người nghĩa sĩ rất cảm động, thậm chí còn tốt hơn các bậc quân vương hiện đại. Tình yêu cho quê hương và tổ tiên kết hợp với những cảm xúc căm hận đối với giặc ngoại xâm, khiến họ quyết tâm lập quân khởi nghĩa và không chờ đợi ai đến yêu cầu. Họ can đảm và kiên quyết trong cuộc chiến, với tinh thần quyết tâm cao độ. Hình ảnh của những người nông dân nghĩa sĩ sáng loá trên bầu trời văn học dân tộc đã được tạo ra.
Mặc dù thua kém đối thủ về nhiều phương diện, nhưng tinh thần chiến đấu của họ rất phi thường. Dù chỉ có “rơm con cúi” làm hoả mai, họ đã đốt cháy nhà thờ và sử dụng dao phay để chặt củi như chém rớt đầu quan hai. Đó là hình ảnh của châu chấu đá đổ xe đầy giòn giã. Họ đã xông thẳng vào quân thù, đạp rào và xô cửa, và chiến đấu dũng mãnh đến mức quân thù bị hủy hoại. Tinh thần quả cảm đó khiến quân thù sợ hãi và tan tác.
Những người nông dân nghĩa sĩ cần Giuộc đã truyền bá tinh thần của anh hùng và đất nước họ gieo mầm hy vọng. Dù cuộc khởi nghĩa thất bại, tinh thần của họ vẫn sống mãi, tái sinh trong linh hồn, tiềm thức và ý chí của những người lính cụ Hồ kiên cường trong thời đại chúng ta.
Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác bức tranh oai hùng về những người nông dân nghĩa sĩ, khẳng định vai trò công lao của họ trong lịch sử bảo vệ Tổ quốc.
Mặc dù đã qua đời, nhưng tinh thần của họ vẫn sống mãi. Họ vẫn “sống đánh giặc” và “thác vẫn đánh giặc” để giúp cơ binh và linh hồn của họ được giúp đỡ. Người ta thường nghĩ rằng khi chết, linh hồn sẽ tới cõi Niết Bàn hoặc về với Chúa, nhưng người nông dân nghĩa sĩ cần Giuộc lại hiến dâng cả thể xác lẫn linh hồn cho Tổ quốc. Hành động này rất cảm động và chỉ có những tâm hồn cao thượng đẹp đẽ như thế mới có thể thực hiện được.
Dù bài văn tế là “tiếng khóc bi tráng”, nhưng mất mát nào cũng đau thương. Sự oanh liệt và hào hùng chỉ có ở những người lính cần Giuộc và hình ảnh của họ sẽ ngân vang mãi mãi trong lòng ta.